1. Trang Chủ
  2. Tài Liệu Học Tập
  3. Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) SGK Ngữ văn 8 tập 1 Kết nối tri thức - chi tiết

Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) SGK Ngữ văn 8 tập 1 Kết nối tri thức - chi tiết

Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) Ngữ văn 8 tập 1

Bài học này hướng dẫn học sinh cách viết một bài văn phân tích một tác phẩm văn học thuộc thể loại thơ trào phúng. Tusach.vn cung cấp nội dung soạn bài chi tiết, giúp học sinh hiểu rõ yêu cầu và cấu trúc của bài văn phân tích.

Chúng tôi sẽ đi sâu vào các bước thực hiện, từ việc xác định đề tài, thu thập thông tin đến xây dựng bố cục và diễn đạt ý tưởng một cách mạch lạc, thuyết phục.

Phân tích một tác phẩm văn học là làm rõ những nét đặc sắc về nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm.

Đề bài

(trang 91, SGK Ngữ văn 8, tập 1)

Phân tích một tác phẩm văn học là làm rõ những nét đặc sắc về nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Việc phân tích một bài thơ trào phúng cũng cần được triển khai theo hướng đó. Ở bài học này, em sẽ được thực hành viết bài văn phân tích một bài thơ trào phúng, qua đó vừa củng cố kĩ năng đọc hiểu, tiếp nhận một bài thơ trào phúng, vừa tiếp tục phát triển kĩ năng phân tích một bài thơ mà em đã được rèn luyện ở bài 2.

Yêu cầu:

- Giới thiệu tác giả và bài thơ

- Phân tích được nội dung trào phúng của bài thơ để làm rõ chủ đề.

- Chỉ ra được tác dụng của một số nét đặc sắc về nghệ thuật trào phúng được thể hiện trong bài thơ.

- Khẳng định được giá trị, ý nghĩa của bài thơ.

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Dựa vào những gợi ý đã cho trong sách giáo khoa để phân tích một bài thơ trào phúng.

Lời giải chi tiết

Phân tích bài Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu:

Trần Tế Xương cay nhất là chuyện thi cử. Tài giỏi như ông mà phải đến lần thi thứ tám mới đậu vét được cái tú tài. Mà Tú tài thời đó thì được tiếng là “ông Tú” nhưng chỉ được “làm quan tại gia”, “ăn lương vợ”. Nhưng không được thênh thênh trên đường hoạn lộ chưa hẳn đã là rủi, thì ông Tú Xương làm thơ, làm thi sĩ, thành thi hào! Bài thơ “Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” là một đòn trời giáng của Tú Xương vào chế độ thi cử mạt vận, hổ lốn, ô nhục của thời thực dân mới đặt chân cai trị đất nước ta.

Là sĩ tử, cũng là nạn nhân trong kì thi Hương năm Đinh Dậu (1897), tại Nam Định, Trần Tế Xương tận mắt chứng kiến sự suy đồi của Nho học, đau lòng trước nỗi ô nhục của tài tử văn nhân đất Bắc. Cho nên mở đầu bài thơ, tác giả đã phê phán sâu sắc nhà nước thực dân phong kiến thời bấy giờ:

“Nhà nước ba năm mở một khoa

Trường Nam thi lẫn với trường Hà”

Tác giả nói “nhà nước” một cách trang trọng như vậy nếu những việc làm của “nhà nước” mà tô't đẹp thì là ngợi ca, còn nếu nói đến những việc làm của “nhà nước” không ra gì thì là “hạ bệ”. Rõ ràng là Tú Xương đã “hạ bệ” cái “nhà nước” thực dân phong kiến đó bằng sự kiện “ba năm mở một khoa”. Dưới sự cai trị của “nhà nước” thực dân, đạo học (chữ Nho) đã mạt vận. “nhà nước” chỉ mở kì thi cầm chừng, hổ lốn, mất hết vẻ trang nghiêm của kỳ thi quốc gia: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Sợ mất an ninh ở Hà Nội, “nhà nước” thực dân đã lừa sĩ tử Hà Nội xuống Nam Định “thi lẫn” với sĩ tử trường Nam. Chỉ một từ “lẫn”, Tú Xương phơi bày cả sự đổ nát của kỳ thi quốc gia và phê phán “nhà nước” vô trách nhiệm.

Sang hai câu thực, sĩ tử và quan trường được nhà thơ Tú Xương biếm họa rất tài tình:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ

Ậm ọe quan trường miệng thét loa”

Tú Xương có biệt tài mà Nguyễn Công Hoan tôn như “thần thơ thánh chữ” là chỉ trong một chữ đã lột tả được thần thái của sự vật. Chỉ một từ “lôi thôi” được đảo ra phía trước, nhấn mạnh là hình ảnh của sĩ tử bị chìm trong sự nhếch nhác. Sĩ tử mà bút mực đâu không thấy, chỉ nổi bật lủng lẳng một cái lọ (vì đường xa, phải đeo theo lọ nước uống). Hàng ngàn “sĩ tử vai đeo lọ” thì lôi thôi thật, là bức tranh biếm họa để đời về anh học trò đi thi trong thời buổi thực dân nhố nhăng. Còn quan trường thì “ậm ọe” giọng như mửa. Sĩ tử thì đông vì dồn cả hai trường thi lại nên quan trường phải “thét loa” lại còn lên giọng đe nẹt sĩ tử nên thành ra “ậm ọe” tởm lợm thật đáng ghét. Thái độ trào lộng của nhà thơ thật rõ ràng. Đối với “sĩ tử”, Tú Xương thấy nhếch nhác đáng thương; đối với “quan trường”, Tú Xương khinh ghét ra mặt. Quan trường của một kì thi quốc gia bát nháo mà còn “ậm ọe” không biết nhục.

Tú Xương còn ghi lại một hiện tượng chưa từng thấy trong lịch sử thi cử của nước nhà là “khoa thi Đinh Dậu”, có cả Tây đầm nhốn nháo ở trường thi:

“Cờ cắm rợp trời quan sứ đến

Váy lê phết đất mụ đầm ra”

“Cờ cắm” hay “Lọng cắm”? Sách giáo khoa hiện hành chép là “Cờ cắm”, có chú thích là: có bản chép: “Lọng cắm”. Thơ Tú Xương gần với thơ ca dân gian, nhà thơ sáng tác không in ấn, không xuất bản, người đời nghe rồi ghi lại nên dễ “tam sao thất bản”. Trong những trường hợp có dị bản như thế này thì buộc người đọc, người nghiên cứu phải lựa chọn. Người soạn sách giáo khoa chọn “cờ cắm” để đối với “váy lê” ở câu dưới cho thật độc. “Cờ” mà đối với “váy” độc quá! Theo tôi, “lọng cắm” hay hơn:

“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến”

Quan sứ (công sứ Nam Định Lơ Nooc Măng, đèn dự lễ xướng danh khoa thi Hương hẳn là phải có “lọng cắm rợp trời” mà “lọng cắm” thì mới “rợp trời”. Còn vế đối “Lọng cắm rợp trời” với “váy lê phết đất” cũng chỉnh quá, mà độc địa không kém. Lọng là cái che trên đầu “quan sứ” mà lại đôi với “váy” là cái che dưới mông “mụ đầm”! “Quan sứ” đến”, “mụ đầm ra”, chúng nó “đến”, nó “ra” như thế thì nhục quá, không chịu được, Tú Xương đã chơi một đòn trí mạng vào bọn Tây đầm thực dân nhốn nháo vào cái thời buổi nhố nhăng! Tú Xương ác khẩu trong cách đối chữ đôi câu, cái tôn nghiêm đem đọ với những cái không tiện hô đúng tên thật, ông lợm sự sông, ông cho lộn tùng phèo cả đi. Nghĩ về người quan văn người quan võ thời nhí nhố ấy, ông đem cái võng (võng điểu võng thắm) ra mà đối với cái khố dây (khố đỏ khố xanh). Tường thuật việc trường thi chữ nho có Tây đến ra bài, ông đem cái lọng quan sứ mà đối với cái váy mụ đầm, đem cái đít vịt bà đầm ra đối với cái đầu rồng một ông cử dốt đang lạy tạ mũ áo vua ban... (Nguyễn Tuân).

Kết thúc bài thơ, tác giả chuyển từ giọng điệu trào lộng sang giọng điệu trữ tình thâm trầm. Tú Xương đau lòng nhắn nhủ với “nhân tài đất Bắc”:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”

Giọng trữ tình thấm thìa ấy như có sự cộng hưởng của giọng điệu trữ tình đầy nhiệt huyết của các nhà ái quốc đầu thế kỷ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... Tất nhiên trong giọng điệu chung của những tấm lòng ái quốc ấy, ta vẫn nhận ra sắc thái riêng của Tú Xương. Khi thì xót xa thổn thức “Nhân tài đất Bắc nào ai đó”, khi thì kiêu bạc trịch thượng “Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”. Không dễ gì mà hạ một chữ “ngoảnh cổ” như vậy đối với giới trí thức Bắc Hà. Phải có chân tài và quan trọng hơn nữa là phải có tấm lòng đối với đất nước, với dân tộc thì nhân tài đất Bắc mới tâm phục. Đúng là tâm sự yêu nước thổn thức của Tú Xương là vật bảo chứng cho những gì là lộng ngôn của nhà thơ:

“Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn”

(Đêm hè)

Dưới mắt Tú Xương, sự suy đồi của đạo học (chữ nho) là một hiện tượng của sự mất nước, của sự nô lệ. Với Tú Xương, nỗi nhục trong “Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” là nỗi nhục mất nước! “Theo tôi nghĩ, thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ cái đông tài liệu thực tế, nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở được ra một cái diện không gian, thời gian trong đó nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” (Nguyễn Tuân).

“Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” của Trần Tế Xương là “sử thi” về đời sống nhà nho lúc Tây sang. Đạo học suy đồi, thi cử bát nháo hố’ lốn, sĩ tử mất hết nhuệ khí, quan trường mất hết nhân cách. Bọn thực dân nghênh ngang đến trường thi là một nỗi ô nhục của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau của nhà thơ đã làm thức tỉnh tầng lớp trí thức đương thời.

Nghệ thuật trào lộng và trữ tình của Tú Xương đều sâu sắc, thấm thía. Đối với sĩ tử, nhà thơ thương mà cười, đối với quan trường, nhà thơ căm ghét mà châm biếm, đối với bọn thực dân, nhà thơ căm thù mà đả kích, hạ nhục. Từ ngữ, hình ảnh, âm điệu, bút pháp của bài thơ bộc lộ tài hoa của một hồn thơ lỗi lạc. Đúng như lời ngợi ca của Yên Đổ:

“Kia ai chín suối xương không nát Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn”

Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) Ngữ văn 8 tập 1 - Chi tiết

Bài học này trang bị cho học sinh lớp 8 những kỹ năng cần thiết để viết một bài văn phân tích tác phẩm văn học, đặc biệt là thể loại thơ trào phúng. Thơ trào phúng là một thể loại đặc sắc, đòi hỏi người đọc và người phân tích phải có khả năng nhận diện các yếu tố châm biếm, đả kích ẩn chứa trong ngôn ngữ và hình ảnh.

I. Mục tiêu bài học

  • Hiểu rõ yêu cầu của một bài văn phân tích tác phẩm văn học.
  • Nắm vững cấu trúc và các bước viết bài văn phân tích.
  • Rèn luyện kỹ năng phân tích, đánh giá tác phẩm văn học, đặc biệt là thơ trào phúng.
  • Biết cách sử dụng ngôn ngữ phù hợp để diễn đạt ý kiến cá nhân một cách thuyết phục.

II. Hướng dẫn soạn bài

  1. Xác định đề tài: Đọc kỹ đề bài và xác định rõ tác phẩm văn học cần phân tích.
  2. Thu thập thông tin: Đọc kỹ tác phẩm, tìm hiểu về tác giả, bối cảnh lịch sử, xã hội và các yếu tố liên quan.
  3. Xây dựng bố cục: Một bài văn phân tích thường có ba phần chính: Mở bài, Thân bài và Kết bài.
  4. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nêu vấn đề cần phân tích.
  5. Thân bài: Phân tích các yếu tố của tác phẩm như nội dung, nghệ thuật, nhân vật, tình huống, ngôn ngữ...
  6. Kết bài: Tổng kết lại vấn đề và nêu ý nghĩa của tác phẩm.

III. Phân tích một tác phẩm thơ trào phúng cụ thể (Ví dụ: Bài thơ 'Vịnh Luỹ Tre làng' của Nguyễn Khuyến)

Để minh họa, chúng ta sẽ phân tích bài thơ 'Vịnh Luỹ Tre làng' của Nguyễn Khuyến. Bài thơ này sử dụng hình ảnh luỹ tre làng để thể hiện tình yêu quê hương, luyến tiếc cảnh vật nông thôn thanh bình.

  • Phân tích nội dung: Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp giản dị, mộc mạc của luỹ tre làng, đồng thời thể hiện sự gắn bó sâu sắc của tác giả với quê hương.
  • Phân tích nghệ thuật: Tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời sống hàng ngày, kết hợp với các biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhân hoá để tạo nên những hình ảnh sinh động, giàu cảm xúc.
  • Phân tích ý nghĩa: Bài thơ 'Vịnh Luỹ Tre làng' là một lời ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, đất nước, đồng thời thể hiện tình yêu thương, gắn bó của tác giả với những con người và cảnh vật nơi mình sinh sống.

IV. Lưu ý khi viết bài văn phân tích thơ trào phúng

  • Chú trọng phân tích các yếu tố châm biếm, đả kích trong tác phẩm.
  • Sử dụng ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, thuyết phục.
  • Đưa ra những ý kiến cá nhân có căn cứ, dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về tác phẩm.
  • Tránh sao chép, đạo văn.

V. Bài tập vận dụng

Hãy viết một bài văn phân tích một bài thơ trào phúng khác mà em yêu thích. Áp dụng những kiến thức và kỹ năng đã học để phân tích tác phẩm một cách sâu sắc và thuyết phục.

Tusach.vn hy vọng với hướng dẫn chi tiết này, các em học sinh lớp 8 sẽ tự tin hơn trong việc viết bài văn phân tích tác phẩm văn học, đặc biệt là thể loại thơ trào phúng. Chúc các em học tốt!

Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!

VỀ TUSACH.VN