1. Trang Chủ
  2. Tài Liệu Học Tập
  3. Phân tích Tràng Giang của Huy Cận.

Phân tích Tràng Giang của Huy Cận.

Phân tích Tràng Giang của Huy Cận: Khám phá vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc

Bài thơ Tràng Giang của Huy Cận là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại, thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết và tình yêu thiên nhiên sâu lắng của nhà thơ. Bài phân tích này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về nội dung, nghệ thuật và giá trị nhân văn của tác phẩm.

Chúng ta sẽ cùng nhau đi sâu vào phân tích các khía cạnh khác nhau của bài thơ, từ hình ảnh dòng sông Tràng Giang đến những cảm xúc, suy tư của tác giả.

Bài thơ mang phong vị cổ điển ở hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét đặc sắc của thơ hiện đại ở không gian sắc màu, từ ngữ đến tứ thơ.

Dàn ý

    1. Mở bài

    - Giới thiệu tác giả Huy Cận

    - Giới thiệu chung về tác phẩm Tràng giang

    2. Thân bài

    * Nhan đề:

    - “Tràng giang": sông dài

    => Từ Hán Việt, kết hợp với vần “ang” tạo đô ngân vang liên tiếp, gợi ra hình ảnh con sông vừa dài vừa rộng.

    * Lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng ngớ sông dài”

    - Hé mở hoàn cảnh sáng tác

    - Định hướng về nội dung và cảm xúc của bài thơ

    a. Khổ 1:

    Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

    Con thuyền xuôi mái nước song song,

    Thuyền về nước lại sầu trăm ngả:

    Củi một cành khô lạc mấy dòng

         Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mang.

    - Từ “điệp điệp” gợi lên hình ảnh những đợt sóng cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt, tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao la.

    - Hình ảnh: con thuyền xuôi mái nước gợi lên sự nhỏ nhoi

    => Hình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên sự cô đơn, le loi của con người

    - Hai câu cuối:

    + Thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi, cho lòng “sầu trăm ngả”.

    + Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu

    => Trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định, đồng thời gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.

    b. Khổ 2:

    Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

    Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

    Nắng xuống trời lên sâu chót vót

    Sông dài trời rộng bến cô liêu

    - Hai câu thơ đầu đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh:

    + Nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm đã gợi lên sự thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo

    + Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” là câu thơ có nhiều cách hiểu nhưng dẫu hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người

    - Hai câu sau, không gian như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn, từ đó gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của lòng người 

    c. Khổ 3:

    Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,

    Mênh mông không một chuyến đò ngang.

    Không cầu gợi chút niềm thân mật,

    Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

    - Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: gợi lên hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu. 

    - Nghệ thuật phủ định được lặp lại: “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”. 

    => Ở nơi đây không có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau

    d. Khổ 4:

    Lớp lớp mây cao đùn cách bạc

    Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

    Lòng quê dợn dợn vời con nước,

    Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

         Hai câu thơ đầu khổ thơ: Vẽ nên một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ.

    + Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau “đùn” lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc.

    + Hình ảnh cánh chim xuất hiện như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn của nhà thơ.

    - Hai câu thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả

    + Hình ảnh “dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế nó còn gợi lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ - nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ quê hương da diết. 

    + Câu thơ cuối đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả một cách chân thực và rõ nét niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ.

    3. Kết bài

         Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm

    Bài mẫu

           Trước Cách mạng tháng Tám, thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn - nỗi buồn tiêu biểu cho cả một thế hệ thơ mới. Bài thơ Tràng giang (1939 - trích từ tập Lửa thiêng) thể hiện cái tôi buồn miên man của nhà thơ trước cảnh trời rộng, sông dài; nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Bài thơ còn thể hiện tình yêu đất nước thầm kín của nhà thơ

            Tràng giang nghĩa là sông dài, từ tràng cũng đọc là trường. Nhưng từ tràng giang với âm hưởng mênh mang của nó, gợi cảnh bao la, bát ngát hơn (tràng giang đại hải). Tác giả dùng từ Hán - Việt đã tạo ra vẻ cổ kính, vĩnh viễn của dòng sông.

           Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước:

      Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

      Con thuyền xuôi mái nước song song

      Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

      Củi một cành khô lạc mấy dòng

           Câu thơ đầu gợi tả cảnh dòng sông mênh mang, những con sóng gợn lô nhô gối nhau tới chân trời tạo cảm giác êm ả trong không gian quạnh vắng như chứa đựng sẵn nỗi buồn: buồn điệp điệp. Nỗi buồn lớp lớp nối nhau tỏa theo con nước đi về trăm ngả: sầu trăm ngả. Cảnh tràng giang trong bài thơ mang một màu cổ kính;

      Xanh om cổ thụ tròn xoe tán.

      Trắng xóa tràng giang phẳng lặng lờ.

      (Thuyền đi)

             Hình ảnh bổ sung cho con thuyền là cành củi khô chìm nổi lênh đênh giữa cảnh bát ngát của dòng sông:

      Củi một cành khô lạc mấy dòng.

            Từ rừng thẳm, cành củi qua bao sông suối mà trôi về đây, dập dờn giữa chốn sông nước bao la, gợi liên tưởng đến cảnh đời lạc loài, bơ vơ. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng bị dòng đời cuốn trôi không biết về đâu.

           Khổ thơ gợi tả cảnh với không gian sông nước mênh mông với những đường nét: song song, điệp điệp, nhưng lại: sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nên không hứa hẹn gì hội tụ, gặp gỡ mà chia tan, xa rời. Thủ pháp tương phản giữa hình ảnh dòng sông rộng lớn với cảnh củi khô và chiếc thuyền nhỏ bé, càng làm nổi bật cảnh bát ngát, vô tận của dòng sông và thân phận lẻ loi, bé nhỏ của con người. Âm điệu chung cho cả bài thơ, buồn vì thân phận con người cô đơn, lạc loài trong cuộc đời cũ.

           Khổ thơ thứ hai tiếp tục mạch thơ khổ đầu nhưng không gian được mở rộng ra và đẩy lên cao hơn.

       Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu

       Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,

       Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

       Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

           Cồn nhỏ đơn côi giữa dòng sông, lại thêm ngọn gió đìu hiu làm cho cảnh càng hoang vu, hiu hắt, chìm khuất. Dòng nước lũ trên thượng nguồn đổ về nhấn chìm cồn nhỏ giữa sông chỉ còn nhô lên vài ngọn cỏ lưa thưa gợi liên tưởng đến những thân phận bị dòng đời nhấn chìm xô dạt. Không gian mở rộng sang bên bờ: cảnh chợ chiều đã vãn càng tô đậm cái vắng vẻ, xa lìa... Cảnh chợ chiều có gợi đến cuộc sống, quê nhà nhưng chỉ là âm thanh xao xác rồi mất hút dần trong cảnh mênh mang vắng lặng của dòng sông. Dòng sông và. nhà thơ như bị tách ra khỏi cuộc đời nên đứng trong cảnh ấy lòng người càng thêm thương nhớ cuộc sống quê hương.

           Bầu trời hiện ra cũng làm tăng thêm vẻ lạc lõng:

      Nắng xuống trời lên sâu chót vót.

          Câu thơ giàu hình tượng, gợi tả không gian có hình khối đường nét và màu sắc: từng vạt nắng trên cao rơi xuống tạo nên khoảng không sâu thẳm trên bầu trời, độ sâu của bầu trời như ở ngọn cót vót. Cách dùng từ sâu gợi không gian bầu trời như mở rộng và đẩy lên cao hơn, sâu hơn, tạo ra không gian thăm thẳm, khôn cùng vô biên của vũ trụ và nỗi buồn của nhà thơ dường như vô tận, mênh mông:

      Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

           Dòng sông, bến bãi, đến bầu trời đều rời rạc và được khỏa lấp nỗi buồn của nhà thơ, buồn vì thiếu vắng cuộc sống nên mong tìm về với cuộc sống.

           Nhưng cảnh càng xuất hiện càng lạc lõng, hờ hững:

      Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

      Mênh mông không một chuyển đò ngang

      Không cầu một chút niềm thân mật

      Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

           Các sự vật được bên nhau: bèo dạt nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng nhưng tạo ra một thế giới không liên hệ, chia lìa. Trong khung cảnh ấy hồn thơ muốn tìm đến dấu vết của cuộc sống nhưng tất cả đều mênh mông xa vắng được nhấn mạnh bởi hai lần phủ định:

      Mênh mông không một chuyển dò ngang

      Không cầu gợi chút niềm thân mật.

             Không một con đò, không một chiếc cầu tri âm, không có bóng người hay cái gì gợi đến tình người để mà gặp gỡ giao tiếp. Chỉ có mặt nước mênh mông vắng lặng.

      Tới ngã ba sóng nước bốn bề,

      Nửa chiều gà lạ gáy bên đê

      (Em về nhà)

           Trong cảnh ấy, tình người càng buồn hơn, buồn vì sự thiếu vắng cuộc sống. Nhà thơ đứng ngay giữa quê hương mình mà cảm thấy bơ vơ, trơ trọi nên càng khao khát gắn bó với con người, cuộc sống, với quê hương:

      Thuyền không giao nối đây qua đó

      Vạn thuở chờ mong một cánh buồm

      (Đảo)

           Bài thơ khép lại với cảnh hoàng hôn kì vĩ nơi chân trời xa:

      Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

      Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa.

      Lòng quê dợn dợn vời con nước,

      Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

            Khung cảnh mở ra với hình ảnh núi bạc được kết tạo bằng mây trắng lấp lánh ánh nắng trời. Tác giả bình: “Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao. Ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp”. Một vẻ đẹp kì thú, ngời sáng, hùng vĩ. Hình ảnh này gợi nhớ đến một ý thơ dịch từ thơ Đường: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa” (Đỗ Phủ) nhưng lại có vẻ đẹp rạng rỡ hơn. Một cánh chim chiều xuất hiện làm cho bức tranh them sinh động, thơ mộng, đẹp đẽ nhưng nhỏ bé, mông lung. Cánh chim nhỏ như bị nắng chiều đè xuống, chỉ nghiêng cánh lá bóng chiều đổ xuống làm cho không gian như có hình khối, trọng lượng và thiên nhiên có vẻ như trĩu nặng nỗi buồn của thi nhân. Cảnh mông lung xa vắng ấy càng gợi thêm lòng thương nhớ quê hương:

      Lòng quê dợn dợn vời con nước

      Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

            Con sóng lòng nhớ quê của nhà thơ đã tỏa ra nhập vào con sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi về mọi nẻo. Ý thơ cuối mượn từ tứ thơ của Thôi Hiệu đời Đường:

      Quê hương khuất bóng hoàng hôn

      Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

      (Hoàng Hạc Lâu)

            Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà, còn Huy Cận không cần khói sóng vẫn nhớ quê hương. Vì mối tình ấy luôn khắc khoải trong lòng. Đó là nguyên nhân chính của nỗi buồn trải dài suốt bài thơ. Một con người buồn nhớ quê hương khi đúng ngay giữa quê hương mình càng thấy bơ vơ tội nghiệp làm sao! Bài thơ kết thúc là cảnh hoàng hôn trên sông nước và mở ra một tình quê bát ngát.

           Tóm lại, nỗi buồn sông nước, trời mây trong Tràng giang của Huy Cận cũng là nỗi đau cuộc đời, nỗi sầu nhân thế. Nhà thơ gởi gắm vào đó một tấm lòng tha thiết yêu quê hương đất nước, sự nâng niu đối với tiếng Việt.

           Vì vậy, Xuân Diệu đánh giá: “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang san, Tổ quốc”. Bài thơ thể hiện cái buồn chung của một thời đại trong Thơ mới. Nhưng nỗi buồn toát ra từ cái đẹp của thiên nhiên thiếu liên lạc thiếu tình người chứ không phải cái buồn vì cảnh tù túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài thơ mang phong vị cổ điển ở hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét đặc sắc của thơ hiện đại ở không gian sắc màu, từ ngữ đến tứ thơ.

      Xem các bài tham khảo khác tại đây:

      Bài tham khảo số 2

      Bài tham khảo số 3

      Bài tham khảo số 4

      Bài tham khảo số 5

      Phân tích chi tiết bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

      Tràng Giang là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Huy Cận, được sáng tác năm 1939, in trong tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ quê hương sâu sắc của nhà thơ khi đứng trước dòng sông quê hương. Bài viết này sẽ cung cấp một phân tích chi tiết về bài thơ, bao gồm hoàn cảnh sáng tác, nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của tác phẩm.

      1. Hoàn cảnh sáng tác

      Huy Cận sinh ra và lớn lên ở làng Đo Đo, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Dòng sông Tràng Giang (sông Đáy) chảy qua quê hương ông đã gắn bó mật thiết với tuổi thơ và tâm hồn ông. Năm 1939, Huy Cận chuyển về Hà Nội sinh sống và làm việc. Nỗi nhớ quê hương, nhớ dòng sông Tràng Giang đã trào dâng trong lòng ông và được thể hiện qua bài thơ cùng tên.

      2. Nội dung bài thơ

      Bài thơ Tràng Giang có thể chia thành ba phần chính:

      • Phần 1 (Khổ 1-2): Mô tả dòng sông Tràng Giang với vẻ đẹp hiền hòa, thơ mộng.
      • Phần 2 (Khổ 3-5): Kỷ niệm về tuổi thơ gắn liền với dòng sông.
      • Phần 3 (Khổ 6-8): Nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ.

      Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc của Huy Cận. Dòng sông Tràng Giang không chỉ là một hình ảnh thiên nhiên mà còn là biểu tượng của quê hương, của tuổi thơ và của những kỷ niệm đẹp đẽ.

      3. Nghệ thuật bài thơ

      Huy Cận đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc để tạo nên vẻ đẹp của bài thơ:

      • Hình ảnh thơ giàu sức gợi tả: “Sông Tràng Giang… uốn mình như một dải lụa mềm”, “Con thuyền… lướt nhẹ trên mặt nước”.
      • Sử dụng các từ ngữ giàu cảm xúc: “nhớ”, “thương”, “quê”, “mẹ”.
      • Sử dụng các phép tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa.
      • Thể thơ lục bát truyền thống: tạo nên nhịp điệu nhẹ nhàng, du dương.

      4. Ý nghĩa của bài thơ

      Bài thơ Tràng Giang là một tác phẩm tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc của Huy Cận. Đồng thời, bài thơ cũng thể hiện sự trân trọng, yêu mến đối với thiên nhiên, với những kỷ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ. Bài thơ có giá trị nhân văn sâu sắc, góp phần làm giàu đẹp thêm nền văn học Việt Nam.

      5. Cảm nhận của tôi về bài thơ

      Khi đọc bài thơ Tràng Giang, tôi cảm thấy như được trở về với tuổi thơ, với những kỷ niệm đẹp đẽ của mình. Dòng sông Tràng Giang hiện lên trong tâm trí tôi với vẻ đẹp hiền hòa, thơ mộng. Bài thơ đã khơi gợi trong tôi tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc. Tôi tin rằng bài thơ Tràng Giang sẽ mãi là một tác phẩm yêu thích của tôi.

      Tóm lại, bài thơ Tràng Giang của Huy Cận là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc và những kỷ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ. Bài thơ có giá trị nghệ thuật và giá trị nhân văn cao, góp phần làm giàu đẹp thêm nền văn học Việt Nam.

      Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!

      VỀ TUSACH.VN