1. Trang Chủ
  2. Tài Liệu Học Tập
  3. Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu để làm sáng tỏ bài văn là Khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang

Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu để làm sáng tỏ bài văn là Khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang

Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu

Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một áng văn bất hủ của Nguyễn Đình Chiểu, thể hiện sâu sắc lòng thương dân, tinh thần yêu nước và ca ngợi những người nông dân nghĩa khí. Bài viết này sẽ đi sâu vào phân tích tác phẩm, làm sáng tỏ giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc của nó.

Chúng ta sẽ cùng khám phá cách Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc, đồng thời làm rõ ý nghĩa 'Khúc ca của những người thất thế' mà bài văn mang lại.

“Chết là hết”, người đời thường nói vậy. Và cuối cùng ai cũng phải chết. Nhưng có những cái chết "không một tiếng vang...

Đề bài: Nhận định về bài Văn tế nghĩa si cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, ông Phạm Văn Đồng cho rằng đó lá Khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang.  Anh (chị) hãy phân tích bài văn để làm sáng tỏ nhận định trên.

BÀI LÀM

   “Chết là hết”, người đời thường nói vậy. Và cuối cùng ai cũng phải chết. Nhưng có những cái chết "không một tiếng vang", lại có những cái chết để “tiếng thơm muôn thuở”. Người nghĩa sĩ cần Giuộc năm xưa đứng dậy chống Pháp đã lựa chọn cái chết thật đẹp: “Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”. Có thể nói toàn bộ bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là "khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang” Phạm Văn Đồng.

    Thế là đã hơn một thế kỉ trôi qua. Cuộc khởi nghĩa của những người nông dân Cần Giuộc đã thất bại. Họ phải ngã xuống giữa chiến trường trong cảnh "da ngựa bọc thây, xác phàm vội bỏ”Họ là những người thất thế, đúng như vậy. Nhưng bài văn tế nghĩa  sĩ Cần Guộc của Nguyễn Đình Chiểu đã làm họ “sống lại" trong những hình tượng đầy khí phách hiên ngang. Những tấm gương đại nghĩa vằng vặc như trăng sao ấy đã tạo cho bài Văn tế âm hưởng của một khúc ca bi tráng. Người nghĩa quân Cần Giuộc vốn chỉ là những nông dân hiền lành, quanh năm: “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung... ". Ấy thế mà khi giặc đến họ liền trở thành những dũng sĩ.Ở họ, nhà thơ nhấn mạnh tinh thần hoàn toàn tự nguyện, tự giác:

   Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;

   Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi chuyến này dốc ra tay bô hổ

   Trong khi triều đình khiếp nhược, chỉ tính bài nhượng bộ, đầu hàng thì họ đã tự động đứng dậy Tinh thần: “Mến nghĩa lùi quân chiêu mộ" của những người dân cày này thật đáng khâm phục. Cuộc chiến đấu của họ tất nhiên là đầy khó khăn: Lực lượng địch, ta quá chênh lệch, thiếu kỹ thuật quân sự, thiếu quân trang, vũ khí. Đoàn nghĩa quân nông dân chán đất nghèo khổ, lam lũ này gần như đi thẳng đến chiến trường từ những Lúp lều rách nát và những luống cày của họ, không cờ reo, trống giục, không mũ nón, không giáp trụ, cùng chẳng gươm giáo, cung tên...

   Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi

   Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gỗ

   Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”, “gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay. Thế mà họ đã làm cho kẻ thù thất điên bát đảo, khiến cho “mã tà ma ní hồn kinh” Sức mạnh của họ không có gì khác ngoài sức mạnh tinh thần. Họ đã lấy gan vàng dọ với dạn sát, lấy lòng căm hờn chống lại "tàu thiếc, tàu đồng" Nguyễn Đình Chiểu không quên họ là những nông dân "Mùi tinh chiên vấy đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỗ". Người dân cày vốn hiền lành, nhưng một khi lòng yêu nước ở họ được khơi dậy thì sức mạnh căm thù trờ nên thật dữ dội:

   Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;

   Ngày xem ống khỏi chạy đen si, muốn ra cắn cố

   Lòng căm thù ấy đã đem đến cho họ sự dũng cảm và sức mạnh phi thường. “kẻ đâm ngang, người chém ngược", họ tả xung hữu đột, tung hoành ngang dọc như ở chỗ không người: "Đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không”, "xô cửa xông vào, liều mình như chẳng cỏ”.

   Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi những nghĩa sĩ nông dân bằng những hình tượng thật chói lọi và những lời văn thật trang trọng, đẹp đẽ. Nhưng ông không che giấu sự thật đau lòng. Bài văn còn là lời ai điếu, là tiếng khóc của Đồ Chiểu trước sự thất thế và cái chốt của nghĩa quân Cần Giuộc. Cái chết của họ khiến cho con người,đất trời, cây cỏ cũng phải động lòng:

   Đoái sông Cần Giuộc: Cỏ cậy mấy dặm sầu giăng,

   Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

   Lắng nghe trong lời văn của Đồ Chiểu như có tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào: Ôi thôi thôi! Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang Sa một khác đùng trá hờn, tui phận hạc trôi theo dòng nước đổ.

Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ

   Cái bi bao trùm lên cả đoạn thơ, nhưng cái bi ở đây không phải là cái bi mà là bi tráng. Đây là nỗi đau lớn vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đau mà không khiến người ta nản lòng, thối chí, bi mà giục giã mọi người đứng dậy hiên ngang cuộc khởi nghĩa đã thất bại. Nhiều nghĩa quân đã phải ngã xuống. Nhưng chết vinh con hơn sống nhục:

   Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với mun di rất khổ.

   Chết như thế thì chết cũng như còn, vì "danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen”, ''tiếng hay trái muôn đời ai cũng mộ”. Chết như thế là để lại tấm gương chói lọ, có sức động viên lớn đối với cuộc chiến đấu sẽ còn tiếp tục:

   Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh  

   Ca ngợi người anh hùng chống Mĩ, Nguyễn Văn Trỗi, nhà thơ Tố Hữu viết

   Có những phút làm nên lịch sử

   Có cái chết hóa thành bất tử.

   (Hãy nhớ lấy lời tôi)

   Đó cũng là cái chốt của những nghĩa sĩ cần Giuộc, những con người thất thế nhưng vẫn hiên ngang "được phản ánh trong bài Văn tế bi tráng của Nguyễn Đình Chiểu. Cảm ơn nhà thơ mù Đồ Chiểu đã bằng tấm lòng và tài năng nghệ thuật để làm sống dậy cả một thời bi thương mà oanh liệt. Ông đã bất tử hóa những người đã khuất, tạc dựng họ thành một cụm tượng đài bền vững và cao đẹp trong thơ cũng như trong lòng người đọc mãi mãi về sau.

Phân tích chi tiết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết năm 1871, sau cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc chống lại thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Bài văn không chỉ là một bài văn tế mà còn là một bản cáo trạng đanh thép đối với chế độ phong kiến thối nát và sự tàn bạo của thực dân Pháp.

1. Bối cảnh ra đời và xuất xứ của bài Văn tế

Cuộc khởi nghĩa Cần Giuộc (1868-1871) là một trong những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của phong trào kháng Pháp cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa này đã bị đàn áp dã man bởi quân Pháp và phong kiến tay sai. Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ yêu nước, đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để thương tiếc những người đã hy sinh và ca ngợi tinh thần chiến đấu bất khuất của nghĩa quân.

2. Phân tích nội dung bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Bài văn được chia thành ba phần chính:

  • Phần mở đầu (Nguyên văn): Thể hiện sự đau xót, tiếc thương trước sự hy sinh của những người nghĩa sĩ.
  • Phần thân bài (Tế văn): Ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của người nghĩa sĩ Cần Giuộc: lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, ý chí bất khuất, và sự gắn bó sâu sắc với nhân dân. Nguyễn Đình Chiểu sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, đối, và điệp để làm nổi bật những phẩm chất này.
  • Phần kết bài (Hịch văn): Kêu gọi tinh thần đoàn kết, đấu tranh của nhân dân, đồng thời vạch trần tội ác của thực dân Pháp và phong kiến tay sai.

3. Hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc

Người nghĩa sĩ Cần Giuộc trong bài văn hiện lên là những người nông dân nghèo khổ, nhưng giàu lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm. Họ không sợ hy sinh, sẵn sàng chiến đấu đến cùng để bảo vệ quê hương, đất nước. Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc một cách chân thực và cảm động, làm cho người đọc cảm thấy xót xa, thương tiếc và khâm phục.

4. Giá trị nghệ thuật của bài Văn tế

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một kiệt tác của văn học Việt Nam, thể hiện tài năng sáng tác bậc thầy của Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn sử dụng ngôn ngữ trang trọng, cổ kính, nhưng vẫn giàu cảm xúc và sức biểu cảm. Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng một cách linh hoạt và hiệu quả, góp phần làm nổi bật giá trị nội dung của tác phẩm.

5. Ý nghĩa 'Khúc ca của những người thất thế'

Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được mệnh danh là 'Khúc ca của những người thất thế' bởi nó ca ngợi những người nông dân nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột, nhưng vẫn giữ vững tinh thần yêu nước và đấu tranh cho tự do, độc lập. Bài văn thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu đối với những người dân Cần Giuộc, đồng thời khẳng định giá trị nhân văn cao cả của chủ nghĩa yêu nước.

6. Bài học từ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ngày nay

Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay. Nó nhắc nhở chúng ta về tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, và ý chí đấu tranh để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Đồng thời, bài văn cũng kêu gọi chúng ta phải thương yêu, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, và văn minh.

Hy vọng bài phân tích này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về giá trị nội dung và nghệ thuật của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.

Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!

VỀ TUSACH.VN