1. Trang Chủ
  2. Tài Liệu Học Tập
  3. Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học trang 107 SGK Ngữ văn 8 tập 2 Chân trời sáng tạo - siêu ngắn

Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học trang 107 SGK Ngữ văn 8 tập 2 Chân trời sáng tạo - siêu ngắn

Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học trang 107 Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo

Bài viết này cung cấp bản soạn bài chi tiết, ngắn gọn và dễ hiểu, giúp học sinh lớp 8 nắm vững kiến thức về cách viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học theo chương trình Chân trời sáng tạo.

Chúng tôi sẽ hướng dẫn bạn từng bước, từ việc xác định đề bài, tìm kiếm ý tưởng, xây dựng dàn ý đến viết bài hoàn chỉnh.

Chỉ ra luận điểm, lí lẽ, bằng chứng trong bài viết và mối quan hệ giữa các yếu tố này.

Hướng dẫn phân tích VB 1

    Câu 1 (trang 108, SGK Ngữ văn 8, tập 2)

    Chỉ ra luận điểm, lí lẽ, bằng chứng trong bài viết và mối quan hệ giữa các yếu tố này.

    Phương pháp giải:

    Vận dụng kĩ năng tạo lập văn bản

    Lời giải chi tiết:

    Luận điểm

    Lí lẽ, bằng chứng

    Luận điểm 1: Đặc sắc nghệ thuật

    Chất liệu thơ Đường; Bút pháp chấm phá và “tả cảnh ngụ tình” của thơ Đường

    Luận điểm 2: Chủ đề của tác phẩm

    Bức tranh đêm trăng mùa xuân đầy sức sống, tinh thần lạc quan và tình yêu thiên nhiên của nhà thơ

    Hướng dẫn phân tích VB 2

      Câu 2 (trang 108, SGK Ngữ văn 8, tập 2)

      Để làm nổi bật các luận điểm, tác giả bài viết đã sử dụng những từ ngữ nào?

      Phương pháp giải:

      Vận dụng kĩ năng đọc hiểu

      Lời giải chi tiết:

      Những từ ngữ dễ hiểu, dễ tiếp cận, đây là văn bản được viết bằng chữ Hán nên tác giả đã giải thích nghĩa của từng câu.

      Hướng dẫn phân tích VB 3

        Câu 3 (trang 108, SGK Ngữ văn 8, tập 2)

        Từ bài văn trên, hãy ghi lại một số lưu ý khi viết bài nghị luận phân tích một tác phẩm văn học

        Phương pháp giải:

        Vận dụng kĩ năng tạo lập văn bản

        Lời giải chi tiết:

        - Xác định rõ vấn đề

        - Nắm rõ thông tin tác giả, tác phẩm

        - Phân tích rõ nội dung và đặc sắc nghệ thuật

        - Đưa ra các luận điểm, lí lẽ, dẫn chứng cụ thể.

        Hướng dẫn viết

          (trang 110, SGK Ngữ văn 8, tập 2)

          Câu lạc bộ văn học trường em tổ chức cuộc thi viết với chủ đề: “Tác phẩm tôi yêu”. Em hãy viết một bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích để tham gia cuộc thi này.

          Phương pháp giải:

          Vận dụng kĩ năng tạo lập văn bản

          Lời giải chi tiết:

          Mùa thu luôn là đề tài, là cảm hứng quen thuộc lâu đời của thơ ca.Trong kho tàng văn học dân tộc ta đã từng biết đến một mùa thu trong veo trong thơ Nguyễn Khuyến, thu ngơ ngác trong thơ Lưu Trọng Lư, dào dạt và đượm buồn trong thơ Xuân Diệu.Và thật bất ngờ khi ta gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng “Sang thu”.

          Bài thơ được sáng tác năm 1977 khi đất nước mới giành được độc lập 2 năm. Đây cũng là một trong những mùa thu và những người lính như Hữu Thỉnh lần đầu tiên được cảm nhận vẻ đẹp của nó trong không khí hòa bình. Chủ đề tác phẩm: Bằng tâm hồn nhạy cảm, bằng tình yêu mùa thu, quê hương nhà thơ đã mở rộng lòng mình để đón nhận giây phút chuyển mình của cảnh vật, đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Đồng thời bộc lộ những chiêm nghiệm, những suy ngẫm về con người, về cuộc đời vốn đầy rẫy những khó khăn thử thách.

          “Sang thu” ở đây là chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu tới có những tín hiệu đầu tiên. Viết về mùa thu các tác giả thường dùng những chất liệu quen thuộc: Sắc vàng của hoa cúc, của lá vàng rơi hay tiếng lá xào xạc của lá ngô đồng, của rặng liễu… Cò riêng Hữu Thỉnh lại đón nhận mùa thu bằng những cảm nhận tinh tế, giản dị:

           “Bỗng nhận ra hương ổi

           Phả vào trong gió se”

          Thu của Hữu Thỉnh được bắt đầu bằng một mùi hương quen thuộc phảng phất trong “gió se” - thứ gió khô và se se lạnh, đặc trưng của mùa thu về ở miền Bắc. Đó là “hương ổi” - mùi hương riêng của mùa thu làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Động từ “Phả” giàu sức gợi cảm, là động từ mạnh diễn tả mùi hương thơm nồng nàn, lan tỏa. Hương ổi “phả” vào trong “gió se” đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị: khiến cho hương thơm ấy như sánh lại và đậm đặc hơn. Làn gió heo may đã đưa hương ổi lan tỏa khắp các đường ngõ, thôn xóm. Để rồi ta nhận ra trong gió có mùi thơm hương ổi nồng nàn một tín hiệu rõ nhất báo mùa thơ về. “Hương ổi” gắn liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong tâm tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ. Hương ổi ấy, cơn gió đầu mùa se lạnh ấy là sứ giả của mùa thu (cũng như chim én là sứ giả của mùa xuân). Nó đến rất khẽ khàng, “khẽ” đến mức chỉ một chút vô tình thôi là không một ai hay biết. Kể từ đây tín hiệu chuyển mùa khi thu về không chỉ là sắc lá vàng bay, là hoa cúc vàng nở rộ, là rặng liễu đìu hiu… mà vị sứ giả đầu tiên mang đến mùa thu cho mỗi chúng ta là “hương ổi” một thứ hương quê mộc mạc, dân dã vốn đã rất thân thuộc với mọi người. Ở đây Hữu Thỉnh đã có một hình ảnh, một tứ thơ khá mới mẻ so với thơ văn cổ viết về mùa thu, nhưng lại vô cùng quen thuộc và gần gũi đối với mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Bắc mỗi độ thu về.

          Tín hiệu sang thu không chỉ bằng hương ổi, gió se mà còn được gợi ra bằng hình ảnh “sương thu”. Với Hữu Thỉnh sương thu không chỉ đẹp, nhẹ nhàng, mong manh hư ảo mà còn rất con người nó đang ngập ngừng lưu luyến trước bước đi của thời gian:

          “Sương chùng chình qua ngõ

           Hình như thu đã về”

          Nhà thơ đã nhân hóa làn sương qua từ láy “chùng chình”. Phép tu từ ấy đã thổi hồn vào những sự vật vô tri, vô giác để làn sương mỏng manh ấy như có tâm hồn, có cảm nhận riêng như ai đó đang nửa muốn đi, nửa muốn ở, ngập ngừng vương vấn khi bước chân qua ngưỡng cửa mùa thu. Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xen nhiều cảm xúc. Với nhà thơ Nguyễn Du thì mùa thu như khói biếc: “Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”.  Còn nhà thơ Tàn Đà thì sương thu nhẹ nhàng như hơi thở của làn khói: “ Khói thu xây thành”. Ở đây sương thu của Hữu Thỉnh, không phải là làn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban mai “Mịt mù khói tỏa ngàn sương”, hay như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây Tiến”: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” mà là “Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng manh, mềm mại, giăng mắc màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên. “Ngõ” ở đây vừa là ngõ thực của làng quê, nhưng cũng có thể là con ngõ nối giữa hay mùa hạ và thu chăng? Tâm trạng sang thu hay tâm trạng con người đang lưu luyến đợi chờ , tiếc nuối một điều gì đó trước ngưỡng cửa thời gian. Như vậy tín hiệu chuyển mùa được tác giả cảm nhận bằng tất cả các giác quan: khứu giác (hương ổi), xúc giác (gió se) rồi đến thị giác (làn sương), tuy vậy trước những tín hiệu ban đầu ban đầu của khoảnh khắc giao mùa, cảm xúc của nhà thơ còn mơ hồ chưa rõ ràng. Cảm xúc ấy còn được thể hiện qua từ “bỗng” diễn tả tâm trạng bất ngờ như chưa kịp chuẩn bị. Và từ: “Hình như thu đã về”. Câu thơ như lời tự hỏi lòng mình là một câu hỏi tu từ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng . Từ “Hình như” là sự phỏng đoán nửa tin, nửa ngờ, một tâm trạng mơ hồ, phân vân, không thật rõ ràng. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá. Câu thơ gợi một chút mơ hồ về thời gian rõ nét đồng thời Hữu Thỉnh đã rất tinh tế thể hiện được những cảm nhận về cảm xúc giao mùa của đất trời, của lòng người một cách ngất ngây và say đắm. Phải là một con người có tâm hồn yêu thiên nhiên tinh tế, nhạy cảm mới có thể cảm nhận được những tín hiệu ban đầu của khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu.

          Nếu khổ thơ thứ nhất là những cảm nhận về mùa thu còn mơ hồ, chưa rõ nét thì đến khổ thơ thứ hai bức tranh mùa thu đã được hiện hữu rõ ràng, đậm nét qua dấu ấn đổi thay của cảnh vật.Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:

          “Sông được lúc dềnh dàng

          Chim bắt đầu vội vã”

          Dấu ấn bức tranh mùa thu được tác giả cảm nhận qua 3 nét vẽ cụ thể: với những hình ảnh:“dòng sông”, “cánh chim”, “đám mây ”. Hình ảnh dòng sông được tác giả miêu tả qua từ láy “dềnh dàng” cùng biện pháp nhân hóa giúp người đọc hình dung trạng thái của dòng sông mùa thu khác hẳn với mùa hạ. Nếu mùa hạ song cuồn cuộn trở nặng phù sa, dữ dội bao nhiêu thì đến mùa thu dòng sông ấy lại trở lên hiền hòa. Nó trôi một cách lững lờ, ung dung, thong thả như đang dạo chơi. Hình ảnh dòng sông gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh mùa thu đã đi qua mùa giông bão. Cái “dềnh dàng” của dòng sông không chỉ gợi ra vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn mang đầy tâm trạng của con người như chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời. Đối lập với hình ảnh hiền hòa, chậm chạp, khoan thai của dòng sông là sự vội vàng của những cánh chim. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động. Chim là động vật vô cùng nhạy cảm, chúng nhận ra trong gió heo may cái se lạnh của mùa thu đang về và mùa đông đang tới. Vậy nên chúng gấp gáp làm tổ, hối hả tha mồi, tất bật chuẩn bị cho những ngày tháng trú đông an toàn nhất hay sự vội vã của một hành trình về phương Nam trú rét. Nhưng cái tinh tế của hồn thơ Hữu Thỉnh lại ở từ “ bắt đầu”. Không phải là những cánh chim đang vội vã mà mới chỉ là bắt đầu. Nhận ra quy luật này chắc hẳn Hữu Thỉnh phải là người rất yêu cuộc sống nên mới có tâm hồn nhạy cảm, mới có thể nghe được, thấy được cái vỗ cánh bắt đầu của những cánh chim, cái cựa mình rất nhẹ của thời gian. Nhà thơ Xuân Diệu từng viết:

          “ Không gian như có dây tơ

          Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tan”

          Ấn tượng nhất trong bức tranh mùa thu chính là hình ảnh:

          “Có đám mây mùa hạ

          Vắt nửa mình sang thu”

          Đây là một hình ảnh thơ sáng tạo, một liên tưởng độc đáo, chỉ bằng mười con chữ gói gọn trong hai câu thơ mà người đọc có thể hình dung ra một bầu trời trong veo, những đám mây trắng lững lờ trôi, nắng mùa hạ vẫn còn vương lưng trời, hắt ánh vàng lên đám mây mỏng nhẹ. Thiên nhiên hai mùa như đang trộn lẫn, đang giao hòa trong áng mây bay. Động từ “vắt” thể hiện thật tài tình tạo ra nhiều liên tưởng giúp người đọc có thể hình dung những đám mây nhẹ trôi bồng bềnh uốn lượn như dải lụa mà ai đó tung lên trời. Cũng có thể gợi cho ta nghĩ đến cây cầu dải yếm hay cầu Ô Thước trong truyện “ Ngưu Lang, Chức Nữ” bắc trên dải ngân hà… Biết bao liên tưởng thú vị được gợi ra từ hình ảnh đám mây đã trở thành nhịp cầu nối liền hai dải thời gian, nối liền hai bờ không gian và thời gian giữa hạ và thu. Bước qua dải cầu mây mềm mại ấy tức là ta đã bước qua mùa hạ sôi động để sang với mùa thu dịu dàng, quyến rũ. Trong thơ ca Việt Nam, không ít những vần thơ nói về đám mây trên bầu trời thu:

           “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”

          (Nguyễn Khuyến - “Thu điếu”)

          Hay: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”

          (Huy Cận - “Tràng giang”)

          Cài tài của Hữu Thỉnh là ông đã lấy cái thời gian siêu hình của sự vật để miêu tả thời gian định tính của vũ trụ. Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được miêu tả bằng nghệ thuật nhân hóa, thổi hồn vào sự vật làm cho bức tranh thu trở nên hữu tình và thi vị.

          Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc đời:

          Vẫn còn bao nhiêu nắng

          Đã vơi dần cơn mưa

          Bức tranh phong cảnh lúc giao mùa được tác giả gợi tả bằng những hình ảnh quen thuộc. Bằng giác quan nhạy cảm, tinh tế Hữu Thỉnh đã nghe thấy, nhận thấy và đong đếm được những nắng, những mưa, những âm vang của cuộc sống. Hàng loạt những phó từ chỉ mức độ giảm dần như vẫn còn “vơi dần, bớt” để nói về trạng thái đặc điểm của thiên nhiên nắng, mưa, sấm khi sang thu. Với một hồn thơ bay bổng, một trái tim nhạy cảm, một giác quan tinh tế Hữu Thỉnh đã cảm nhận trên bầu trời thu nắng hạ vẫn còn nhưng không còn gay gắt, chói chang, đổ lửa như nắng mùa hạ. Mưa mùa hạ vẫn còn nhưng sang thu mật độ thưa hơn, nhẹ hơn, nó không dữ dội như những cơn mưa mùa hạ nữa. Chớm thu sấm mùa hạ còn theo bước chân mùa hạ đi vào mùa thu nhưng âm vang giảm hẳn. Sang thu con người, vạn vật dường như đã quen dần với tiếng sấm mùa hạ nên không còn bất ngờ và kinh hãi nữa.

          Hai câu thơ cuối bài lắng xuống với nhiều triết lí sâu xa:

          Sấm cũng bớt bất ngờ

          Trên hàng cây đứng tuổi”.

          Hai câu thơ vừa mang nghĩa tả thực, vừa mang nghĩa tượng trưng: Tả thực, Sấm là hiện tượng bất thường của tự nhiên. Hàng cây đứng tuổi là hàng cây cổ thụ sống lâu năm, hàng cây ấy đã trải qua nhiều tác động của tự nhiên trở nên vững vàng, mạnh mẽ hơn. Đồng thời câu thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa: Sấm và hàng cây đứng tuổi là hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa sâu xa: “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người đứng tuổi từng trải. Họ trở lên vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh. Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bắt đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn…trước những chấn động của cuộc đời. Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.

          Bằng biện pháp tu từ nhân hóa, các hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm, thể thơ năm chữ, bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã thể hiện một cách đặc sắc những cảm nhận tinh tế để tạo ra một bức tranh chuyển giao từ cuối hạ sang thu nhẹ nhàng, êm dịu,trong sáng nên thơ…ở vùng đông bằng Bắc Bộ để từ đó gửi gắm những suy nghĩ rất sâu sắc về con người và cuộc đời. Đọc “Sang thu”, ta nhận ra ở Hữu Thỉnh là tình yêu tha thiết với thiên nhiên, là một tâm hồn tinh tế và vô cùng nhạy cảm. Điều đó thật đáng để ta trân trọng.

          Đã rất nhiều năm trôi qua nhưng đến nay bài thơ “ sang thu” vẫn còn nguyên giá trị. Những khổ thơ trên đã góp phần làm nên thành công ấy cho bài thơ. Bài thơ mang một chút buồn, dịu dàng và lặng lẽ, thiên nhiên và con người cùng một nhịp sang thu. Cảnh thu và tình thu đang lồng vào nhau, thắm thiết và lưu luyến bồi hồi, vừa trang nghiêm, vừa chững chạc. Một mùa thu thật đẹp, lặng lẽ và dịu dàng, gửi gắm vào đó là tình cảm của con người với quê hương, đất nước. Với những giá trị ấy Hữu Thỉnh cùng với “sang thu” sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc hôm nay và mai sau.

          Soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học trang 107 Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo - Chi tiết và Dễ Hiểu

          Bài học 'Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học' trong chương trình Ngữ văn 8 tập 2, Chân trời sáng tạo, trang 107, là một bước quan trọng trong việc rèn luyện kỹ năng viết và tư duy phản biện của học sinh. Bài học này không chỉ giúp các em hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm văn học mà còn phát triển khả năng phân tích, đánh giá và diễn đạt ý kiến cá nhân một cách logic và thuyết phục.

          I. Mục tiêu bài học

          Mục tiêu chính của bài học này là:

          • Hiểu rõ yêu cầu của một bài văn phân tích tác phẩm văn học.
          • Nắm vững các bước thực hiện để viết một bài văn phân tích hoàn chỉnh.
          • Rèn luyện kỹ năng phân tích, đánh giá và diễn đạt ý kiến cá nhân.
          • Vận dụng kiến thức đã học để viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học cụ thể.

          II. Các bước viết bài văn phân tích tác phẩm văn học

          Để viết một bài văn phân tích tác phẩm văn học hiệu quả, bạn cần thực hiện theo các bước sau:

          1. Bước 1: Đọc kỹ tác phẩm và xác định đề bài: Đọc kỹ tác phẩm văn học và hiểu rõ nội dung, nhân vật, tình huống, ý nghĩa của tác phẩm. Sau đó, xác định rõ đề bài mà bạn cần phân tích.
          2. Bước 2: Tìm kiếm ý tưởng: Suy nghĩ về các khía cạnh của tác phẩm mà bạn muốn phân tích. Có thể là phân tích nhân vật, phân tích tình huống, phân tích ngôn ngữ, phân tích chủ đề, hoặc phân tích ý nghĩa của tác phẩm.
          3. Bước 3: Xây dựng dàn ý: Dàn ý là bản phác thảo của bài văn, giúp bạn sắp xếp các ý tưởng một cách logic và có hệ thống. Một dàn ý hoàn chỉnh thường bao gồm ba phần: Mở bài, Thân bài và Kết bài.
          4. Bước 4: Viết bài: Dựa vào dàn ý, bạn bắt đầu viết bài văn. Hãy viết một cách rõ ràng, mạch lạc và sử dụng ngôn ngữ phù hợp.
          5. Bước 5: Kiểm tra và chỉnh sửa: Sau khi viết xong, hãy kiểm tra lại bài văn để đảm bảo rằng nó không có lỗi chính tả, ngữ pháp và logic.

          III. Mở bài

          Mở bài có nhiệm vụ giới thiệu tác phẩm và đề bài phân tích. Bạn có thể bắt đầu bằng một câu hỏi, một nhận định, hoặc một trích dẫn từ tác phẩm.

          Ví dụ:

          “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một kiệt tác của văn học Việt Nam, thể hiện tài năng và tâm hồn sâu sắc của nhà thơ. Bài viết này sẽ phân tích hình tượng Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều gặp Mã Giám Sinh” để làm rõ vẻ đẹp và số phận bi thảm của nhân vật này.

          IV. Thân bài

          Thân bài là phần quan trọng nhất của bài văn, nơi bạn trình bày các ý kiến phân tích của mình. Hãy chia thân bài thành các đoạn văn nhỏ, mỗi đoạn văn tập trung vào một khía cạnh cụ thể của tác phẩm.

          Ví dụ:

          • Đoạn 1: Phân tích hình tượng Thúy Kiều qua vẻ ngoài và lời nói.
          • Đoạn 2: Phân tích hành động và suy nghĩ của Thúy Kiều khi gặp Mã Giám Sinh.
          • Đoạn 3: Phân tích ý nghĩa của cuộc gặp gỡ giữa Thúy Kiều và Mã Giám Sinh.

          V. Kết bài

          Kết bài có nhiệm vụ tóm tắt lại các ý kiến phân tích và đưa ra đánh giá chung về tác phẩm. Bạn có thể kết thúc bằng một câu hỏi mở hoặc một lời nhắn nhủ.

          Ví dụ:

          “Cuộc gặp gỡ giữa Thúy Kiều và Mã Giám Sinh là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Kiều, mở ra một chuỗi những bi kịch và đau khổ. Qua hình tượng Thúy Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.”

          VI. Lưu ý khi viết bài văn phân tích tác phẩm văn học

          • Sử dụng ngôn ngữ chính xác, rõ ràng và mạch lạc.
          • Tránh sử dụng những từ ngữ sáo rỗng, khuôn mẫu.
          • Đưa ra những ý kiến phân tích sâu sắc, có căn cứ.
          • Sử dụng các dẫn chứng cụ thể từ tác phẩm để minh họa cho ý kiến của mình.
          • Kiểm tra và chỉnh sửa bài văn cẩn thận trước khi nộp.

          Hy vọng bài soạn này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về cách viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học. Chúc bạn học tốt!

          Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!

          VỀ TUSACH.VN