Bài soạn Thực hành tiếng Việt bài 4 Ngữ văn 9 tập 1 Cánh diều được tusach.vn biên soạn chi tiết, giúp học sinh hiểu rõ nội dung bài học và rèn luyện kỹ năng thực hành tiếng Việt. Bài soạn bao gồm đầy đủ các phần: mục tiêu, nội dung chính, phân tích tác phẩm và hướng dẫn giải bài tập.
Với đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm, tusach.vn cam kết mang đến cho học sinh những bài soạn chất lượng, chính xác và dễ hiểu nhất.
Ghép các lời dẫn (in đậm) ở bên A với cách dẫn phù hợp ở bên B:
Trả lời Câu hỏi 1 trang 94 SGK Văn 9 Cánh diều
Ghép các lời dẫn (in đậm) ở bên A với cách dẫn phù hợp ở bên B:
A. Lời dẫn | B. Cách dẫn |
a) Ông kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy! (Kim Lân) | 1) Dẫn trực tiếp ý nghĩ của nhân vật |
b) Bà Hai bỗng lại cất tiếng: - Thầy nó ngủ rồi ư? Dậy tôi bảo cái này đã. (Kim Lân) | 2) Dẫn gián tiếp lời nói của nhân vật |
c) Anh tìm vô nhà gặp mạ, kế với mạ anh ấy gặp cậu đang theo bộ đội đi qua bên mặt trận.... (Phùng Quán) | 3) Dẫn trực tiếp lời nói của nhân vật |
d) Trong đầu tôi chợt nảy ra một ước mơ rất trẻ con: "Biết đâu có lúc nào đó mình cũng làm được một chiếc xe như thế nhỉ?". (Honda Soichiro) | 4) Dẫn gián tiếp ý nghĩ của nhân vật |
Phương pháp giải:
Đọc kĩ các trường hợp, áp dụng phần kiến thức ngữ văn về các loại lời dẫn
Lời giải chi tiết:
a - 4
b - 3
c - 2
d - 1
Trả lời Câu hỏi 2 trang 94 SGK Văn 9 Cánh diều
Tìm lời dẫn trong những đoạn văn dưới đây. Xác định các trường hợp: dẫn lời nói, dẫn ý nghĩ; dẫn trực tiếp, dẫn gián tiếp. Chỉ ra đặc điểm giúp em nhận biết mỗi cách dẫn và sự phù hợp của cách dẫn đó trong mỗi đoạn văn.
a) Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.". (Hồ Chí Minh)
b) Ông kể lại hôm Tây vào khủng bố. Chúng nó có bao nhiêu thằng, bao nhiêu Tây, bao nhiêu Việt gian, đi những đường nào, đốt phá những đâu đâu, và dân quân, tự vệ làng ông bố trí, cầm cự ra sao, rành rọt, tỉ mỉ như chính ông lão vừa mới dự trận đánh giặc ấy xong thật... (Kim Lân)
c) Hoạ sĩ nghĩ thầm: “Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn". (Nguyễn Thành Long)
Phương pháp giải:
Đọc kĩ các đoạn trích, áp dụng phần kiến thức ngữ văn
Lời giải chi tiết:
Cách 1
a, “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi" - dẫn lời nói trực tiếp bằng dấu hai chấm và ngoặc kép
b, Chúng nó có bao nhiêu thằng, bao nhiêu Tây, bao nhiêu Việt gian, đi những đường nào, đốt phá những đâu đâu, và dân quân, tự vệ làng ông bố trí, cầm cự ra sao - dẫn gián tiếp lời nói không được đánh dấu bằng dấu câu
c, “Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn" - dẫn ý nghĩ trực tiếp qua dấu hai chấm và ngoặc kép
a) Lời dẫn trong đoạn văn: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lời và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.” – là lời dẫn trực tiếp. Lời dẫn được tách ra khỏi phần đứng trước bằng dấu hai chấm và dấu ngoặc kép. Hồ Chí Minh đã trích nguyên câu văn trong Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 để khẳng định tự do, bình đẳng là quyền mà tất cả mọi người dân trên thế giới được hưởng.
b) Lời dẫn trong đoạn văn: Chúng nó có bao nhiêu thằng, bao nhiêu Tây, bao nhiêu Việt gian, đi những đường nào, đốt phá những đâu đâu và dân quân, tự vệ làng ông bố trí, cầm cự ra sao, rành rọt, tỉ mỉ như chính ông lão vừa mới dự trận đánh giặc ấy xong thật… - là lời dẫn gián tiếp. Lời dẫn không trích y nguyên lời nói của nhân vật mà đã điều chỉnh, thay đổi theo lời người thuật lại. Lời dẫn này đã giúp cho tác giả thể hiện được cách nhìn nhận đánh giá của mình về nhân vật thông qua lời kể của nhân vật.
c) Lời dẫn trong đoạn văn: “Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn.”. – là lời dẫn trực tiếp ý nghĩ của nhân vật. Lời dẫn được tách ra khỏi phần đứng trước bằng dấu hai chấm và dấu ngoặc kép. Lời dẫn này thể hiện sự đánh giá chủ quan của tác giả đối với anh thanh niên, sự đánh giá này chưa chắc đã đúng.
Trả lời Câu hỏi 3 trang 95 SGK Văn 9 Cánh diều
Chuyển lời dẫn trực tiếp dưới đây thành lời dẫn gián tiếp:
a) Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng mười hạt minh châu, sai sứ giả Xích Hỗn đưa Phan ra khỏi nước. Vũ Nương nhân đó cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn:
- Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về. (Nguyễn Dữ)
b) Sau khi thằng con đi, lão tự bảo rằng: "Cái vườn là của con ta. Hồi còn mồ ma mẹ nó, mẹ nó cổ thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu". (Nam Cao)
c) Nhà văn Xu-khôm-lin-xki (Sukhomlynsky) đã nói: "Con người sinh ra không phải để tiêu biến như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim người khác". (Theo Trần Thị Ngọc Luyến)
Phương pháp giải:
Đọc kĩ văn bản, áp dụng phần kiến thức ngữ văn
Lời giải chi tiết:
Cách 1
a. Vũ Nương nhân đó cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn Phan Lang rằng hãy nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, nàng sẽ trở về.
b. Sau khi thằng con đi, lão tự bảo rằng cái vườn là của con lão. Hồi còn mồ ma mẹ hắn, mẹ hắn cổ thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu
c. Nhà văn Xu-khôm-lin-xki (Sukhomlynsky) đã nói rằng con người sinh ra không phải để tiêu biến như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim người khác
a) Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng mười hạt minh châu, sai sứ giả Xích Hỗn đưa Phan ra khỏi nước. Vũ Nương nhân đó cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn nói hộ với chàng Trương rằng nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, thì xin lập một đàn giải oan ở bến sông rồi đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, nàng sẽ trở về.
b) Sau khi thằng con đi, lão tự bảo rằng cái vườn là của con lão. Hồi mẹ nó còn sống, mọi thứ còn rẻ, mẹ nó cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra được năm mươi đồng bạc tậu đước cái vườn ấy.
c) Nhà văn Xu-khôm-lin-xki (Sukhomlynsky) đã từng nói rằng con người sinh ra không phải để tiêu biến như một hạt cát vô danh mà họ sinh ra để in dấu trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim người khác.
Trả lời Câu hỏi 4 trang 95 SGK Văn 9 Cánh diều
Viết một đoạn văn (khoảng 8 - 10 dòng) về chủ đề tinh thần yêu nước của nhân dân ta, trong đó có dẫn trực tiếp một trong các ý kiến dưới đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
a) Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
b) Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chúng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung.... Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng.
Phương pháp giải:
Đọc kĩ các gợi ý và phát triển thành một đoạn văn
Lời giải chi tiết:
Cách 1
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”. Lời nhận định ấy của Hồ Chí Minh là hoàn toàn có cơ sở và đã được chứng minh qua nhiều thời kì lịch sử của đất nước ta. Trải qua 4000 năm dựng nước và giữ nước, một quá trình đấu tranh gian khổ đã in dấu biết bao những vị anh hùng, tướng tài như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ,... Đến hai cuộc đấu tranh chống lại những cường quốc bậc nhất của thế kỉ 19,20, ta lại một lần nữa thấy được tình cảm ấy. Những người lính đã ra đi, gác lại đằng sau bao giấc mơ còn dang dở, bao mộng ước ấp ủ để lên đường bảo vệ Tổ quốc. Họ ra đi với một tinh thần, ý chí bất diệt "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Biết bao nhiêu những người chiến sĩ đã anh dũng hi sinh, không ngại thân mình để bảo vệ từng tấc đất của chủ quyền thiêng liêng. Đến nay, trong thời bình, lòng yêu nước vẫn luôn được gìn giữ và phát huy.
a) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”. Điều đó đã được khẳng định từ quá khứ đến hiện tại. Trong những năm chiến tranh, nhân dân Việt Nam luôn đoàn kết một lòng chống lại kẻ thù xâm lược: từ phương Bắc đến thực dân Pháp hay đế quốc Mĩ. Ở bất cứ thời đại nào, cũng có những bậc anh hùng - hữu danh hay vô danh nguyện hi sinh để giành lại độc lập cho dân tộc. Còn khi hòa bình, tinh thần yêu nước lại được thể hiện qua nhiều hành động khác nhau. Sự biết ơn, yêu mến những người đã sinh ra, dạy dỗ chúng ta. Hay là mong muốn học tập để mai này trở về xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp. Cùng với đó là ý chí bảo vệ và phát huy những nét văn hóa truyền thống của quê hương. Đặc biệt là lòng quyết tâm chiến đấu bảo vệ đất nước của mỗi con người trong những lúc gian nguy rình rập (chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh…). Như vậy, mỗi người dân Việt Nam hãy luôn giữ gìn và phát huy tinh thần yêu nước - truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
b) Nhân dân Việt Nam có một truyền thống yêu nước nồng nàn. Điều đó được thể hiện từ trong quá khứ đến hiện tại. “Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Quang Trung… Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng.” (Hồ Chí Minh). Để rồi đến hiện tại, tinh thần yêu nước đó lại tiếp tục được phát huy. Từ cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng, trẻ thơ…ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc. Hay những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội. Cả những người phụ nữ khuyên chồng tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải. Rồi nam nữ nông dân và công nhân hăng hái tăng gia sản xuất. Ngay cả những đồng bào điền chủ quyên ruộng cho Chính phủ…. Thế mới thấy tinh thần yêu nước không luôn tiềm ẩn trong mỗi con người, không phân biệt giới tính, tuổi tác hay nghề nghiệp, giai cấp…
Bài học Thực hành tiếng Việt bài 4 trong SGK Ngữ văn 9 tập 1 Cánh diều tập trung vào việc rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn nghị luận về một vấn đề xã hội. Để giúp các em học sinh nắm vững kiến thức và hoàn thành bài tập một cách hiệu quả, tusach.vn xin giới thiệu bài soạn chi tiết sau đây:
Bài học Thực hành tiếng Việt bài 4 yêu cầu học sinh viết một đoạn văn nghị luận về một vấn đề xã hội mà các em quan tâm. Để viết được một đoạn văn nghị luận tốt, các em cần:
Dưới đây là hướng dẫn giải chi tiết các bài tập trong SGK Ngữ văn 9 tập 1 Cánh diều:
(Đoạn văn mẫu về một vấn đề xã hội)
Để hoàn thành bài tập này, các em có thể tham khảo các bước sau:
Hy vọng với bài soạn chi tiết này, các em học sinh sẽ nắm vững kiến thức và hoàn thành bài tập Thực hành tiếng Việt bài 4 SGK Ngữ văn 9 tập 1 Cánh diều một cách hiệu quả. Chúc các em học tốt!
| Tiêu chí đánh giá | Mức độ |
|---|---|
| Nội dung | Đầy đủ, chính xác, phù hợp với yêu cầu của bài học |
| Hình thức | Mạch lạc, có tính liên kết, sử dụng ngôn ngữ chính xác |
| Luận điểm | Rõ ràng, thể hiện quan điểm cá nhân |
| Luận cứ | Thuyết phục, có tính logic, dựa trên dẫn chứng cụ thể |
Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi, tài liệu học tập