Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên là một tác phẩm tiêu biểu của thơ mới, thể hiện sự cảm thông sâu sắc của nhà thơ đối với thân phận của người nghệ sĩ trong xã hội cũ. Nhân vật ông đồ là trung tâm của bức tranh Tết buồn, gợi lên nhiều suy ngẫm về sự thay đổi của thời đại và sự lụi tàn của những giá trị truyền thống.
Bài viết này sẽ đi sâu vào phân tích nhân vật ông đồ, khám phá những nét đặc sắc trong hình tượng và ý nghĩa biểu tượng mà nhà thơ muốn truyền tải.
Nếu sức mạnh của thơ nằm ở khả năng gợi cảm và truyền cảm của nó thì có thể coi “ông đồ” của Vũ Đình Liên là một bài đầy chất thơ
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên là bài thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới giai đoạn đầu.
- Khái quát hình ảnh ông đồ: Hình ảnh ông đồ là hình ảnh trung tâm của bài thơ, tuy nhiên, hình ảnh này có sự thay đổi lớn qua 2 giai đoạn: thời kì đắc ý và thời kì suy tàn.
2. Thân bài:
a. Hình ảnh ông đồ thời kì đắc ý
- Hình ảnh ông đồ xuất hiện trong thời gian “Tết đến xuân về”, khi “hoa đào nở”:
+ Ông đồ và hoa đào như một cặp hình ảnh báo hiệu mùa xuân đến, năm mới bắt đầu.
+ Cặp từ “mỗi năm… lại” như thể hiện sự xuất hiện của ông đồ vào mùa xuân như một việc quen thuộc, một điều đã trở thành thói quen, thường lệ của chính ông đồ và những người xung quanh.
+ Hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ giữa chốn phố sá nhộn nhịp đã trở thành hình ảnh thân thuộc, là một phần không thể thiếu của ngày Tết truyền thống, in sâu vào tiềm thức của người dân Việt Nam.
- Ông đồ thời này là trung tâm của mọi sự chú ý bởi những nét “phượng múa rồng bay”, người người đều “tấm tắc ngợi khen tài”.
⇒ Hình ảnh ông đồ tượng trưng cho một nét truyền thống văn hóa lâu đời của Việt Nam. Cả người thuê viết và người cho chữ đều đã và đang giữ gìn, phát huy nét truyền thống thanh cao, tao nhã và đầy văn minh ấy.
b. Hình ảnh ông đồ thời kì suy tàn
- Khung cảnh đìu hiu, vắng vẻ:
+ Cụm từ “mỗi năm mỗi vắng” thể hiện mức độ, không phải ông đồ và truyền thống cho chữ ngay lập tức bị lãng quên mà điều ấy diễn ra dần dần, theo thời gian mà ngày càng phai nhạt và biến mất.
+ Câu hỏi tu từ như một lời thốt lên đầy xót xa về sự thay đổi của xã hội, của lòng người.
- Hình ảnh ông đồ ngồi đơn độc, lạc lõng giữa đường phố tấp nập:
+ Giấy – “không thắm”, “mực” – “đọng trong nghiên sầu”, “lá” – “rơi trên giấy”… Một loạt các hình ảnh được miêu tả đều mang một nỗi buồn chung: nỗi buồn bị lãng quên.
+ Hình ảnh lá vàng rơi và mưa bụi như làm tăng thêm sự ảm đạm, gợi cảm giác úa tàn, lạnh lẽo.
+ Tâm trạng ông đồ: buồn bã, chán nản, u uất, dường như tất cả đang nghẹn ứ lại, dồn nén và kết thành một khối sầu thảm muôn thuở.
+ Hình ảnh ông đồ lạc lõng giữa xã hội tượng trưng cho sự mai một của một nét văn hóa truyền thống, sâu hơn đó là sự xuống dốc của văn hóa xã hội, của lòng người đối với những giá trị truyền thống của dân tộc.
c. Mở rộng vấn đề
- Sự đối lập của hình ảnh ông đồ trong 2 khoảng thời gian khác nhau đã làm nổi bật lên tình cảnh đáng thương, đáng buồn của ông đồ. Ông bị xã hội bỏ rơi ngay trước mắt, vẫn nhưng “hoa tay”, “nét vẽ” ấy, vẫn ông đồ già ấy, vẫn khung cảnh ấy, nhưng lòng người đã đổi thay.
- Qua đó, ta thấy được tấm lòng đồng cảm, thương xót của tác giả đối với không chỉ ông đồ mà sâu hơn, đó là đối với cả một giá trị truyền thống của dân tộc. Đó chính là cảm hứng nhân đạo và niềm hoài cổ đặc trưng trong thơ của Vũ Đình Liên.
3. Kết bài:
- Khái quát lại hình ảnh ông đồ: Hình ảnh ông đồ là đại diện cho một lớp người đang tàn tạ cũng như những giá trị truyền thống đang bị lãng quên.
- Liên hệ và đánh giá: Qua đó thể hiện niềm cảm thương của tác giả trước sự tha hóa của xã hội và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ người xưa.
Nếu sức mạnh của thơ nằm ở khả năng gợi cảm và truyền cảm của nó thì có thể coi “ông đồ” của Vũ Đình Liên là một bài đầy chất thơ. Ít có bài thơ nào ngắn ngủi chỉ có năm khổ ngũ ngôn như thế mà để đọng lại một ấn tượng thấm thía, gợi lên cả một hoài niệm ngậm ngùi đến như vậy. Nỗi ngậm ngùi về một nét đẹp truyền thống đã mất đi. Nỗi cảm thương cho một lớp người lỗi thời dù đã chìm lịm dần vào dĩ vãng. Đó là nội dung chính của tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Ông đồ. Đó cũng là đặc điểm khiến cảm hứng nhân văn này đọng bền, in sâu vào tâm trí bạn đọc, càng về sau này hình như càng giàu sức ngân vang hơn. Có phải nhân vật ông đồ ở đây cũng tương tự một cổ vật, mà thời gian càng trôi, giá trị càng lớn?
Ta thấy trong cảm hứng của Vũ Đình Liên có hai nốt lớn: sự cảm phục thích thú trước vẻ đẹp chữ nghĩa ông đồ, và nỗi cảm thương man mác trước "cái di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời tàn” - như chính lời tác giả tự bộc lộ.
Lòng cảm phục của nhà thơ hướng về những nét chữ “Như phượng múa rồng bay” của một bút pháp có “hoa lay”. Những nét “phượng múa rồng bay” ấy đủ khiến mọi người “tấm tắc ngợi khen tài”, và chinh phục luôn cả nhà thơ. Vẻ đẹp ấy trên nền cảnh “hoa đào nở” ứng với thời tiết gợi cảm đầu năm và trong không khí xuân về Tết đến, càng như được hòa quyện thêm một hơi men cuốn hút.
Nhưng sự cảm phục ấy ở đây chỉ như một tiền đề, một nguyên nhân phát sinh nỗi buồn liếc hoài cổ, rất thấm đậm trong bài. Càng ngợi khen, cảm phục bao nhiêu vẻ đẹp “phượng múa rồng hay” kia, nhà thơ càng buồn nhớ bâng khuâng bấy nhiêu trước cảnh hiu quạnh chợ chiều mỗi năm mỗi vắng - người thuê viết nay đâu? Đặc biệt hai dòng thơ sau mang một sức mạnh tâm tình, một sắc thái “thi lại ngôn ngoại” đầy dư vị, ôm ba:
Giấy đỏ buồn không thắm,
Mực đọng trong nghiên sầu...
Thật là những hình ảnh có hồn, những dòng thơ chứa chất tâm sự. Nói là cái buồn của giấy, kì thật là nỗi xót xa của người trước cảnh phai tàn của cái đẹp. Nói là mực đọng trong nghiên, chỉ là một cách thể hiện nỗi sầu thương trước một hiện tượng đáng trân trọng đang sắp tiêu vong.
Đến hai khổ thơ cuối bài thơ, tình cảm của tác giả hướng hẳn về con người đã tạo ra vẻ đẹp trên kia. Hình ảnh ông đồ vẫn ngồi đó, nhưng hầu như bị quên lãng hẳn, đến nỗi “qua đường không ai hay" mới đáng buồn, tội nghiệp làm sao! Chỉ còn “lá vàng rơi trên giấy” trong khi “ngoài kia mưa bụi bay” như muốn vùi kín, xoá nhoà đi tất cả vẻ đẹp đáng trân trọng của một thời. Cả một lớp người quá “đát”! Cả một nếp sinh hoạt văn hoá đặc sắc không còn.
Cuối cùng, bóng dáng những ông đồ đã mất hẳn. Họ đã mất một mẫu người “xưa”. Tiếng gọi hồn “những người muôn năm cũ” ấy, có thể tác giả chỉ nhằm vào một thế hệ đã hết thời. Nhưng ta vẫn nghĩ nỗi cảm thương, lòng tiếc nuối mong mỏi đó không chỉ dành cho những ông đồ mà còn dành cho cả những nét đẹp văn hoá cổ truyền đang bị mất dần. Nỗi tiếc nhớ mong mỏi đó trong những năm gần đây ngày càng gặp được nhiều hơn những nỗi niềm đồng vọng của thế hệ hôm nay ý thức hướng về nguồn. Những dịp Tết mới rồi, cùng với việc phục hồi các lễ hội dân gian; một số nơi như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh còn tổ chức triển lãm thư pháp, “cho chữ" ở Văn Miếu... Hỡi tác giả hài thơ bất hủ Ông đồ, bây giờ cũng đã thành “người muôn năm cũ” ở thế giới bên kia! Giấy đỏ mấy năm nay đã thắm lại rồi; mực lại lóng lánh trong nghiên cho khỏa tay phóng bút những vế đôi mừng xuân khi hoa đào nở đấy, Người có vui chăng?
Nhân vật ông đồ trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên là biểu tượng của một lớp người từng giữ vai trò quan trọng trong xã hội cũ, nhưng dần bị lãng quên trước sự đổi thay của thời cuộc. Qua hình tượng này, nhà thơ không chỉ bày tỏ nỗi niềm tiếc nuối cho những giá trị truyền thống đang phai mờ, mà còn thể hiện tâm trạng xót xa trước sự bẽ bàng của kiếp người bị thời đại bỏ lại phía sau.
Hai khổ thơ đầu của bài thơ khắc họa hình ảnh ông đồ trong thời kỳ huy hoàng:
"Mỗi năm hoa đào nở,
Lại thấy ông đồ già,
Bày mực tàu giấy đỏ,
Bên phố đông người qua."
Ông đồ xuất hiện cùng mùa xuân, mang đậm nét đẹp của văn hóa truyền thống. Hình ảnh ông đồ già "bày mực tàu giấy đỏ" bên phố phường nhộn nhịp gợi lên một không gian đậm chất cổ kính. Lúc bấy giờ, ông đồ là người được trọng vọng, mang tri thức và nghệ thuật thư pháp để làm đẹp cho đời. Sự tấp nập "người thuê viết" phản ánh vai trò quan trọng của ông đồ trong xã hội, nơi chữ nghĩa không chỉ là công cụ giao tiếp mà còn là biểu tượng của sự tri ân và văn hóa.
Những khổ thơ tiếp theo chuyển sang gam màu buồn bã khi hình ảnh ông đồ dần trở nên mờ nhạt:
"Nhưng mỗi năm mỗi vắng,
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm,
Mực đọng trong nghiên sầu."
Sự mai một của văn hóa Nho học kéo theo cảnh ngộ hẩm hiu của ông đồ. Những hình ảnh "giấy đỏ buồn không thắm," "mực đọng trong nghiên sầu" không chỉ tả cảnh mà còn gợi lên nỗi cô đơn, lạc lõng của ông đồ. Cảnh vật dường như cũng đồng cảm với con người, mang sắc thái trầm buồn, u uất. Cả một giá trị truyền thống từng được trọng vọng nay chỉ còn là hoài niệm.
Hai khổ thơ cuối càng làm rõ nỗi xót xa khi ông đồ bị lãng quên hoàn toàn:
"Ông đồ vẫn ngồi đó,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài trời mưa bụi bay."
Hình ảnh ông đồ ngồi cô độc giữa dòng người qua lại thờ ơ là biểu tượng cho sự bất lực của con người khi không còn phù hợp với thời đại. Những giá trị ông mang theo không còn chỗ đứng, và bản thân ông cũng trở thành một kẻ ngoài lề xã hội. Sự quên lãng của người đời, cùng cảnh vật hiu quạnh như "lá vàng," "mưa bụi" càng tô đậm nỗi buồn nhân thế, nỗi đau về sự suy tàn của một nền văn hóa.
Nhân vật ông đồ không chỉ là biểu tượng của một lớp người cụ thể trong lịch sử mà còn là hình ảnh đại diện cho những giá trị truyền thống đẹp đẽ của dân tộc. Qua hình tượng này, Vũ Đình Liên gửi gắm nỗi niềm tiếc nuối trước sự đổi thay của thời đại, nhắc nhở con người về việc trân trọng và gìn giữ những giá trị văn hóa, tinh thần.
Ông đồ trong bài thơ Ông đồ là một hình ảnh đầy sức gợi, vừa khắc họa số phận con người trong sự xoay vần của thời gian, vừa phản ánh sự mai một của những giá trị văn hóa truyền thống. Qua đó, Vũ Đình Liên không chỉ bày tỏ nỗi buồn hoài cổ mà còn đánh thức ý thức gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc trong lòng mỗi người đọc.
Bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên là một trong những tác phẩm tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, khắc họa nỗi buồn hoài niệm trước sự mai một của một nền văn hóa cổ truyền. Hình tượng ông đồ hiện lên không chỉ là một con người cụ thể mà còn là biểu tượng cho số phận của những giá trị văn hóa truyền thống bị lãng quên trong dòng chảy của thời đại.
Ở hai khổ thơ đầu, hình ảnh ông đồ hiện lên đầy sống động trong bối cảnh xã hội cũ:
"Mỗi năm hoa đào nở,
Lại thấy ông đồ già,
Bày mực tàu giấy đỏ,
Bên phố đông người qua."
Ông đồ xuất hiện cùng với mùa xuân – thời điểm sum họp, khởi đầu tươi đẹp của năm mới. Những hình ảnh như “mực tàu,” “giấy đỏ” không chỉ gợi không khí Tết truyền thống mà còn làm nổi bật vai trò của ông đồ – người lưu giữ giá trị văn hóa thông qua nét chữ thư pháp. Cảnh “phố đông người qua” và “người thuê viết” phản ánh sự trọng vọng của xã hội đối với ông đồ khi chữ Hán, chữ Nho còn được xem là biểu tượng của học vấn, tri thức và tinh hoa dân tộc.
Nhưng rồi thời thế đổi thay, Nho học không còn giữ vị trí quan trọng, và ông đồ dần bị lãng quên:
"Nhưng mỗi năm mỗi vắng,
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm,
Mực đọng trong nghiên sầu."
Hình ảnh “giấy đỏ buồn không thắm” và “mực đọng trong nghiên sầu” như một ẩn dụ cho sự phai nhạt của những giá trị từng được trân quý. Người đời thờ ơ, quay lưng, bỏ mặc ông đồ trong cô đơn và lạc lõng. Bằng những câu thơ giàu tính gợi cảm, Vũ Đình Liên đã làm sống lại bức tranh về một thời đã xa, đồng thời khắc sâu nỗi đau của con người khi không còn được xã hội thừa nhận.
Hai khổ thơ cuối tiếp tục đẩy nỗi buồn lên cao trào:
"Ông đồ vẫn ngồi đó,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài trời mưa bụi bay."
Ông đồ "vẫn ngồi đó" như một chứng nhân lặng lẽ của thời gian, nhưng giờ đây không còn ai đoái hoài đến ông nữa. Không gian tĩnh lặng với "lá vàng rơi," "mưa bụi bay" không chỉ vẽ nên bức tranh hoang vắng mà còn tượng trưng cho sự lụi tàn, tan biến của những giá trị xưa cũ. Tâm trạng bẽ bàng, cô đơn của ông đồ không chỉ là nỗi đau cá nhân mà còn là nỗi xót xa cho cả một nền văn hóa truyền thống bị quên lãng. Hình tượng ông đồ không chỉ đơn thuần là một nhân vật trong bài thơ mà còn mang tính biểu tượng sâu sắc. Ông đồ đại diện cho những giá trị văn hóa cổ truyền như chữ Hán, thư pháp – những tinh hoa từng được coi trọng nhưng nay đã dần mai một. Qua nỗi buồn và sự cô độc của ông đồ, Vũ Đình Liên gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về thái độ thờ ơ, vô tình của con người đối với những giá trị văn hóa truyền thống, đặt ra trách nhiệm gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc.
Ông đồ trong bài thơ Ông đồ là một hình tượng đầy sức ám ảnh về sự phai mờ của văn hóa truyền thống và sự cô độc của con người trước dòng chảy thời gian. Qua đó, Vũ Đình Liên không chỉ bày tỏ nỗi tiếc thương mà còn gửi gắm thông điệp sâu sắc về việc trân trọng và bảo vệ những giá trị tốt đẹp của dân tộc, để chúng không bị lãng quên trong nhịp sống hiện đại.
Bài thơ "Ông đồ" của Vũ Đình Liên là một bức tranh Tết xưa với những nét đẹp truyền thống đang dần phai tàn. Nhân vật trung tâm của bức tranh đó chính là ông đồ – một người nghệ sĩ nghèo khó, gắn bó với nghề viết chữ thư pháp trong dịp Tết Nguyên Đán. Để hiểu rõ hơn về giá trị nghệ thuật và ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm, chúng ta cần phân tích kỹ lưỡng hình tượng ông đồ.
Ông đồ xuất hiện trong một không gian Tết buồn, cô đơn. Vũ Đình Liên đã sử dụng những hình ảnh tương phản để làm nổi bật sự cô đơn của ông đồ: "Mỗi năm hoa đào, hoa mai" đối lập với "Một ông đồ già", "Áo the thô sơ" đối lập với "những trò vui" của trẻ con. Sự tương phản này cho thấy ông đồ không còn là một phần của không khí Tết náo nhiệt, mà trở thành một hình ảnh lạc lõng, cô đơn.
Ông đồ ngồi lặng lẽ bên đường, "cúi đầu" viết chữ, "mực tàu" loang lổ. Những hành động này thể hiện sự già nua, cô đơn và sự tàn tạ của ông đồ. Ông không còn được mọi người quan tâm, không còn có ai tìm đến để xin chữ cầu may.
Vũ Đình Liên đã khắc họa ông đồ với những nét vẽ chân thực, tỉ mỉ. Ông đồ "râu bạc", "mắt mờ", "áo the thô sơ". Những chi tiết này cho thấy ông đồ đã trải qua nhiều năm tháng lao động vất vả, cuộc sống nghèo khó. Tuy nhiên, bên dưới vẻ ngoài già nua, tàn tạ, ông đồ vẫn giữ được những phẩm chất cao quý.
Ông đồ là một người nghệ sĩ chân chính, yêu nghề và tận tâm với công việc. Ông "cúi đầu" viết chữ, "mực tàu" loang lổ, nhưng mỗi nét chữ đều chứa đựng tâm huyết và tình cảm của ông. Ông không viết chữ để kiếm tiền, mà viết chữ để mang lại niềm vui và may mắn cho mọi người.
Nhân vật ông đồ trong bài thơ không chỉ là một người nghệ sĩ nghèo khó, mà còn là biểu tượng cho những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc đang dần bị lụi tàn. Ông đồ đại diện cho một lớp người trí thức, nghệ sĩ yêu nước, gắn bó với văn hóa dân tộc. Sự cô đơn, tàn tạ của ông đồ phản ánh sự suy tàn của những giá trị truyền thống trong xã hội cũ.
Hình ảnh ông đồ cũng gợi lên nỗi nhớ tiếc về một thời vàng son của dân tộc, khi văn hóa truyền thống còn được coi trọng. Vũ Đình Liên đã thông qua hình tượng ông đồ để bày tỏ sự trăn trở, lo lắng về sự thay đổi của thời đại và sự mất mát những giá trị văn hóa.
Trong quá trình lịch sử, hình tượng ông đồ đã trải qua nhiều sự thay đổi. Trước đây, ông đồ là một người được mọi người kính trọng, tin tưởng. Ông được mời đến viết chữ thư pháp trong dịp Tết Nguyên Đán, mang lại niềm vui và may mắn cho mọi người. Tuy nhiên, đến thời hiện đại, hình tượng ông đồ dần trở nên mờ nhạt, ít người còn biết đến.
Sự thay đổi này phản ánh sự thay đổi của xã hội, khi những giá trị truyền thống không còn được coi trọng như trước. Tuy nhiên, hình tượng ông đồ vẫn còn sống mãi trong tâm trí của nhiều người, như một biểu tượng cho những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Nhân vật ông đồ trong bài thơ "Ông đồ" của Vũ Đình Liên là một hình tượng nghệ thuật sâu sắc, mang nhiều ý nghĩa biểu tượng. Ông đồ không chỉ là một người nghệ sĩ nghèo khó, mà còn là biểu tượng cho những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc đang dần bị lụi tàn. Bài thơ đã góp phần làm giàu thêm vốn văn học Việt Nam và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi, tài liệu học tập