1. Trang Chủ
  2. Tài Liệu Học Tập
  3. Phân tích ý nghĩa của những tương phản trong đoạn tả cảnh Huấn Cao cho chữ ở nhà giam trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

Phân tích ý nghĩa của những tương phản trong đoạn tả cảnh Huấn Cao cho chữ ở nhà giam trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

Phân tích ý nghĩa của những tương phản trong đoạn tả cảnh Huấn Cao cho chữ ở nhà giam

Đoạn tả cảnh Huấn Cao cho chữ trong truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân là một kiệt tác nghệ thuật, đặc biệt nổi bật với việc sử dụng các thủ pháp tương phản. Bài viết này sẽ đi sâu vào phân tích những tương phản đó, làm sáng tỏ ý nghĩa sâu sắc mà tác giả muốn truyền tải.

Chúng ta sẽ khám phá sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, sự sống và cái chết, sự cao quý và thấp hèn, từ đó hiểu rõ hơn về nhân vật Huấn Cao và triết lý nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

Truyện chỉ có 3 nhân vật: tử tù, quản ngục và thầy thơ lại, xoay quanh chuyện xin chữ và cho chữ. Qua đó, Nguyễn Tuân ca ngợi và khẳng định kẻ sĩ chân chính rất tài hoa, giàu khí phách hiên ngang, bất khuất, đến chết vẫn đề cao thiên lương.

   Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ ngôn từ, là một văn nhân tài tử. Trước cách mạng, tác phẩm “Vang bóng một thời” đã khẳng định bút pháp nghệ thuật tài hoa, uyên bác, độc đáo của Nguyễn Tuân. Là một trong số 12 truyện ngắn của “Vang bóng một thời” (1940), truyện “Chữ người tử tù” xứng đáng là một trang hoa, tờ hoa đích thực đem lại hương sắc cho đời.

   Truyện chỉ có 3 nhân vật: tử tù, quản ngục và thầy thơ lại, xoay quanh chuyện xin chữ và cho chữ. Qua đó, Nguyễn Tuân ca ngợi và khẳng định kẻ sĩ chân chính rất tài hoa, giàu khí phách hiên ngang, bất khuất, đến chết vẫn đề cao thiên lương.

   Truyện “Chữ người tử tù” thể hiện lối viết tài hoa của Nguyễn Tuân. Tình tiết, sự kiện, cảm xúc dồn nén như thắt lại lúc đầu để tạo hứng thú nghệ thuật cho đến phần cuối truyện khi cảnh cho chữ diễn ra “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên những tương phản nghệ thuật đầy ý nghĩa thẩm mĩ trong đoạn tả cảnh Huấn Cao cho chữ quản ngục trong nhà giam.

   Chữ Huấn Cao “đẹp lắm, vuông lắm”, là “một vật báu trên đời”. Huân Cao không vì vàng bạc hay quyền thế mà “ép mình viết bao giờ". Nhất sinh ông mới viết 2 bộ tứ bình và một trung đường cho ba người bạn thân. Quản ngục, một kẻ "biết đọc vở nghĩa sách thánh hiền” ao ước một ngày kia có một câu đối do tay ông Huấn Cao viết để “treo ở nhà riêng mình”. Lần gặp gỡ thứ nhất trong nhà giam, quản ngục đã bị Huấn Cao nặng lời gần như xua đuổi: “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”. Thế mà cuối cùng cảnh cho chữ lại diễn ra. Huấn Cao đã “cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của quản ngục, ngạc nhiên về “những sở thích cao quý” của “kể tiểu lại giữ tù”. Và ông đã xúc động nói: “Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ".

   Những tương phản trong cảnh cho chữ được thể hiện đầy ấn tượng. Kẻ xin chữ là ngục quan, người đang giữ “phép nước”. Người cho chữ lại là một tử tù sắp bước lên đoạn đầu đài. Kẻ làm nghề “nhem nhuốc” lại thích chơi chữ, một sở thích cao quý”. Người “đi làm giặc” có tài “bẻ khóa và vượt ngục” lại có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” lừng danh trong thiên hạ. Trong quan hệ xã hội, Huấn Cao quản ngục là đối địch, đứng về “hai trận tuyến” nhưng trên bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri kỉ. Một cuộc kì ngộ ít thấy trên đời.

   “Thư pháp” là một thứ nghệ thuật cao sang. Phải là văn nhãn tài hoa, tài tử mới có chỗ đứng ở “thư pháp”. “Thư pháp” vốn chỉ diễn ra ở đài các, viện sảnh, chốn thư phòng, nơi sang trọng, có bao giờ diễn ra nơi chết chóc, tối tăm, bẩn thỉu? Về thời gian, cảnh cho chữ không diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật mà lại diễn ra giữa đêm khuya “bí mật”, lúc trại giam tỉnh Sơn “chí còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh”, về không gian, nơi Huấn Cao viết bức châm tặng quản ngục lại là phòng giam tử tù “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tương phản với cái tối tăm, hôi thối ấy là “ánh sáng đỏ rực” của một bó đuốc tẩm dầu, là màu “trắng tinh” của tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ căng phẳng trên mảnh ván, là “mùi thơm” của tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ căng phảng trên mảnh ván, là “mùi thơm” ở chậu mực bốc lên. Qua đó, ta thấy kẻ sĩ mọi thời dù trong bất kì cảnh ngộ éo le nào cũng vẫn hướng về ánh sáng và cái thanh quy để giữ lấy sự trong sáng, thanh cao của tâm hồn.

   Thơ lại gầy gò “run run” bưng chậu mực. Ngục quan “khúm núm” cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiểng”, lúc thì “tô đậm nét chữ”, lúc thì “thay bút con, để lạc khoản”, rất ung dung tài hoa, viết nên những nét chữ “vuông vắn rõ ràng”, một báu vật để lại cho đời. Hình ảnh tử tù “thở dài” đỡ ngục quan đứng thẳng dậy, đĩnh đạc vá chân tình khuyên ngục quan “thay chỗ ở đi”, tìm về quê nhà mà ở đã rồi hãy tính đến chuyện chơi chữ, để giữ lấy “thiên lương cho lành vững”. Hình ảnh ngục quan vái tử tù một vái, nước mắt ứa ra, là điểm đỉnh của cảnh cho chữ. Những tương phản này mang một ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc. Nghệ sĩ có thể bị hãm hại, nhưng cái đẹp do nghệ sĩ sáng tạo ra mãi mãi bất tử trong lòng người Huấn Cao cho đến chết vẫn bất khuất hiên ngang, vẫn nêu cao thiên lương.

   Trong “lửa đóm cháy rừng rực”, hình ảnh Huấn Cao, quản ngục và thầy thơ lại “nhìn bức châm rồi lại nhìn nhau”, ta cảm thấy cái đẹp của nghệ thuật, của thiên lương đang lung linh tỏa sáng tâm hồn họ! Phải chăng Huấn Cao đã viết bức châm này, câu đối này để tặng ngục quan trước khi bước ra pháp trường “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm. Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” ?

   Truyện “Chữ người tử tù” được Nguyễn Tuân sáng tạo nên bằng bút pháp lãng mạn chủ nghĩa. Tác giả đã sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật tương phản, làm nổi bật sự đối lập gay gắt giữa cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác lí tưởng và hiện thực, tính cách và hoàn cảnh... Cảnh cho chữ là cảnh chói sáng nhất trong truyện “Chữ người tử tù”. Ta cảm thấy được sống lại, được mục kích một cảnh tượng cổ kính, thiêng liêng về viết câu đối của ông cha đang diễn ra trước mắt mình. Hình ảnh Huấn Cao lồng lộng và ngạo nghễ biết bao: “Phút cuối cùng chói lọi khối sao băng!’’.

Phân tích ý nghĩa của những tương phản trong đoạn tả cảnh Huấn Cao cho chữ ở nhà giam trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

Truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của ông, đặc biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ và xây dựng hình tượng nhân vật. Đoạn tả cảnh Huấn Cao cho chữ ở nhà giam là một trong những đoạn văn ấn tượng nhất, nổi bật với việc sử dụng các thủ pháp tương phản một cách tinh tế và hiệu quả.

1. Tương phản giữa ánh sáng và bóng tối

Nguyễn Tuân đã tạo ra một không gian nhà giam đầy ám ảnh với sự tương phản mạnh mẽ giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng ở đây không phải là ánh sáng tự nhiên, tươi sáng mà là ánh sáng tù túng, yếu ớt của đèn dầu. Nó chỉ đủ để soi rõ khuôn mặt Huấn Cao, làm nổi bật vẻ đẹp khắc khổ, phong trần của người nghệ sĩ. Bóng tối bao trùm lấy không gian, tượng trưng cho sự tù túng, ngột ngạt và cái chết đang cận kề. Sự tương phản này nhấn mạnh sự cô đơn, bi kịch của Huấn Cao, một người tài hoa bị giam cầm trong chốn ngục tù.

2. Tương phản giữa sự sống và cái chết

Trong hoàn cảnh ngục tù, Huấn Cao đang đối diện trực tiếp với cái chết. Tuy nhiên, ông vẫn giữ được niềm đam mê nghệ thuật, vẫn muốn truyền lại những giá trị văn hóa cho thế hệ sau. Việc ông cho chữ, một hành động sáng tạo, mang tính chất khẳng định sự sống, đối lập với sự tàn khốc của cái chết. Bút mực, giấy, chữ viết trở thành những biểu tượng của sự sống, của tinh thần bất khuất, không chịu khuất phục trước số phận.

3. Tương phản giữa sự cao quý và thấp hèn

Huấn Cao là một người nghệ sĩ tài hoa, có lòng tự trọng cao. Ông khinh thường những kẻ tầm thường, vô đạo đức. Tuy nhiên, ông lại phải sống trong một môi trường đầy rẫy những con người thấp hèn, những kẻ sẵn sàng làm mọi thứ để tồn tại. Sự tương phản này làm nổi bật sự cô đơn, lạc lõng của Huấn Cao, đồng thời thể hiện sự khinh bỉ của ông đối với xã hội thối nát. Việc ông cho chữ cho người quản ngục, một người đại diện cho quyền lực áp bức, cũng là một cách để ông khẳng định giá trị của mình, vượt lên trên những ràng buộc của xã hội.

4. Tương phản trong cách miêu tả nhân vật

Nguyễn Tuân sử dụng những từ ngữ đối lập để miêu tả Huấn Cao. Ông vừa là một người tù, vừa là một nghệ sĩ. Ông vừa mạnh mẽ, kiên cường, vừa cô đơn, bi kịch. Sự tương phản này làm cho hình tượng Huấn Cao trở nên phức tạp, đa chiều và đầy sức hấp dẫn. Cách miêu tả này cũng thể hiện sự trân trọng của Nguyễn Tuân đối với những con người tài hoa, bất chấp hoàn cảnh khó khăn.

5. Ý nghĩa của việc sử dụng tương phản

Việc sử dụng các thủ pháp tương phản trong đoạn tả cảnh Huấn Cao cho chữ không chỉ là một kỹ thuật nghệ thuật mà còn mang ý nghĩa sâu sắc. Nó giúp tác giả làm nổi bật sự bi kịch của nhân vật, thể hiện sự khinh bỉ đối với xã hội thối nát và khẳng định giá trị của nghệ thuật. Đồng thời, nó cũng góp phần tạo nên một phong cách nghệ thuật độc đáo, đậm chất Nguyễn Tuân.

Tóm lại, đoạn tả cảnh Huấn Cao cho chữ trong "Chữ người tử tù" là một minh chứng rõ ràng cho tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Việc sử dụng các thủ pháp tương phản một cách tinh tế và hiệu quả đã tạo nên một đoạn văn ấn tượng, giàu ý nghĩa và góp phần làm nên thành công của tác phẩm.

Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!

VỀ TUSACH.VN