Bài viết này sẽ đi sâu vào phân tích và bình giảng đoạn thơ thứ hai trong bài thơ nổi tiếng Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. Mục đích chính là làm sáng tỏ phong cách thơ trữ tình hướng nội đặc trưng của nhà thơ, thông qua việc khám phá những hình ảnh, ngôn ngữ và cảm xúc được thể hiện trong đoạn thơ.
Chúng ta sẽ cùng nhau khám phá những tầng ý nghĩa sâu sắc, những nỗi niềm riêng tư và những rung động tinh tế trong tâm hồn Hàn Mặc Tử qua đoạn thơ này.
Khổ thơ trên đây, mỗi câu, mỗi chữ, mỗi vần thơ đều thấm đẫm tình thương nhớ và một nỗi buồn thiu, lẻ loi. Vần thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Thơ Hàn Mạc Tử, đúng là thơ trữ tình hướng nội tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này ...
Huế đẹp và thơ. Núi sông diễm lệ. Con gái Huế xinh tươi va đa tình Nếp sống thanh lịch của miền núi Ngự sông Hương đã trở thành ấn tượng và cảm mến sâu sắc đối với bao người gần xa:
Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón.
Thơ ca viết về Huế có nhiều bài hay. Tiêu biểu là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mạc Tử, nhà thơ lỗi lạc trong phong trào “Thơ mới”. Bài thơ có 3 khổ thơ thất ngôn nói về cảnh sắc và cô gái Vĩ Dạ trong hoài niệm với bao cảm xúc bâng khuâng, man mác, thẫn thờ.
Vĩ Dạ, một làng cổ xinh đẹp nằm bên bờ Hương Giang thuộc cố đô Huế, qua hồn thơ Hàn Mạc Tử mà trở nên gần gũi yêu thương đối với nhiều người hơn 60 năm qua. Đây là khổ thơ thứ hai của bài “Đây thôn Vĩ Dạ".
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh vật thôn Vĩ khi “nắng mới lên” ... ở khổ thơ thứ hai, Hàn Mạc Tử nhớ đến một miền sông nước mênh mang, bao la, một không gian nghệ thuật nhiều thương nhớ và lưu luyến. Có gió, nhưng “gió theo lối gió". Cũng có mây, nhưng “mây đường mây”. Mây gió đôi đường, đôi ngả:
“Gió theo lối gió, mây đường mây”.
Cách ngắt nhịp 4/3, với hai vế tiểu đối, gợi ta một không gian gió, mây chia lìa, như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Chữ “gió” và “mây” được điệp lại hai lần trong mỗi vế tiểu đối đã gợi lên một bầu trời thoáng đãng, mênh mông. Thi nhân đã và đang sống trong cảnh ngộ chia li và xa cách nên mới cảm thấy gió mây đôi ngả đôi đường như tình và lòng người bấy nay. Ngoại cảnh gió mây chính là tâm cảnh Hàn Mạc Tử.
Không có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm. Sông Hương lững lờ trôi xuôi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã hóa thành “dòng nước buồn thiu”, càng thêm mơ hồ, xa vắng. “Buồn thiu” là buồn héo hon cả gan ruột, một nỗi buồn day dứt triền miên, cứ thấm sâu mãi vào hồn người. Hai tiếng “buồn thiu” là cách nói của bà con xứ Huế. Bờ bãi đôi bờ sông cũng vắng vẻ, chỉ nhìn thấy “hoa bắp lay”. Chữ “lay” gợi tả hoa bắp đung đưa trong làn gió nhẹ. Hoa bắp, hoa bình dị của đồng nội cũng mang tình người và hồn người.
Hai câu thơ 14 chữ với bốn thi liệu (gió, mây, dòng nước, hoa bắp) đã hội tụ hồn vía cảnh sắc thôn Vĩ. Hình như đó là cảnh chiều hôm? Hàn Mạc Tử tả ít mà gợi nhiều, tượng trưng mà ấn tượng. Ngoại cảnh thì chia lìa, buồn lặng lẽ biểu hiện một tâm cảnh: thấm thía nỗi buồn xa vắng, cô đơn.
Hai câu thơ tiếp theo gợi nhớ một cảnh sắc thơ mộng, cảnh đêm trăng trên Hương Giang ngày nào. “Dòng nước buồn thiu” đã biến hóa kì diệu thành “sông trăng” thơ mộng.
“Thuyền, ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử được nhiều người ngợi ca, kết tinh rực rỡ bút pháp nghệ thuật tài hoa lãng mạn. Một vần lưng tài tình. Chữ “đó” cuối câu 3 bắt vần với chữ “có” đầu câu 4, âm điệu vần thơ cất lên như một tiếng khẽ hỏi thầm “có chở trăng về kịp tối nay?”. “Thuyền ai” phiếm chỉ, gợi lên bao ngỡ ngàng bâng khuâng, tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa xôi. Con thuyền mồ côi nằm trên bến đợi “sông trăng” là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo. Đã có “Thuyền ai đậu bến Cô Tô” hiện lên trong ánh trăng tà và tiếng quạ kêu sương trong thơ Trương Kế đời Đường. Đã có “Sông xuân đâu chẳng sáng ngời trăng“ trong “Xuân giang hoa nguyệt dạ” của Trương Nhược Hư, 1300 năm về trước. Qua đó, ta thấy hình tượng “sông trăng” là mới mẻ, sáng tạo. Cả hai câu thơ của Hàn Mạc Tử, câu thơ nào cũng có trăng. Ánh trăng tỏa sáng dòng sông, con thuyền và bến đò. Con thuyền không chở người (vì người xa cách chia li) mà chỉ “chở trăng về” phải “về kịp tối nay” vì đã cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng. Con thuyền tình của ước vọng nhưng đã thành vô vọng! Bến sông trăng trở nên vắng lặng vì “thuyền ai”: Con thuyền vô định. Phiếm chỉ — là con thuyền mồ côi. Còn đâu cô gái Huế diễm kiều, e ấp, mà chơ vơ còn lại con thuyền mồ côi khắc khoải đợi chờ trăng!
Sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi và sông trăng. Cảnh đẹp một cách mộng ảo. Cả ba hình ảnh ấy đều biểu hiện một nỗi niềm, một tâm trạng cô đơn, thương nhớ đối với cảnh và người nơi thôn Vĩ. Như ta đã biết, thời trai trẻ, Hàn Mặc Tử đã từng học ở Huế, từng có một mối tình đơn phương với một thiếu nữ thôn Vĩ, mang tên một loài hoa. Với chàng thi sĩ tài hoa đa tình và bất hạnh, đang sống trong cô đơn và bệnh tật, nhớ Vĩ Dạ là nhớ cảnh cũ người xưa. Cảnh “gió theo lối gió, mây đường mây”, cảnh thuyền ai đậu bến sông trăng đó là cảnh đẹp mà buồn., Buồn vì chia lìa, xa vắng, lẻ loi và vô vọng.
Khổ thơ trên đây, mỗi câu. mỗi chữ, mỗi vần thơ đều thấm đẫm tình thương nhớ và một nỗi “buồn thiu” lẻ loi. vần thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Thơ Hàn Mạc Tử, đúng là thơ trữ tình hướng nội “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” ...
Đoạn thơ thứ hai của bài Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng, nhưng ẩn chứa bên trong là những cảm xúc dồn nén, những nỗi niềm cô đơn sâu thẳm của Hàn Mặc Tử. Để chứng minh rằng thơ Hàn Mặc Tử là thơ trữ tình hướng nội, chúng ta cần phân tích kỹ lưỡng các yếu tố sau:
Hàn Mặc Tử sử dụng những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc như “con chim”, “cây đa”, “giàn gío”, “sân đình” nhưng không miêu tả chúng một cách khách quan, mà thông qua lăng kính chủ quan của tâm hồn nhà thơ. Sự tương phản giữa vẻ đẹp thanh bình của thôn Vĩ Dạ và nỗi buồn man mác trong tâm hồn nhà thơ tạo nên một hiệu ứng nghệ thuật đặc biệt.
Ngôn ngữ trong đoạn thơ thứ hai mang tính biểu tượng cao, giàu sức gợi. Hàn Mặc Tử sử dụng nhiều từ ngữ mang sắc thái buồn, cô đơn như “lặng”, “im”, “buồn”. Giọng điệu thơ nhẹ nhàng, da diết, thể hiện sự trĩu nặng trong tâm hồn nhà thơ.
Ví dụ, câu thơ “Lặng lẽ song thân xây tổ ấm” không chỉ miêu tả hành động của chim, mà còn gợi lên nỗi khao khát một mái ấm gia đình, một tình yêu hạnh phúc mà Hàn Mặc Tử không có được.
Đoạn thơ thể hiện rõ những cảm xúc phức tạp trong tâm hồn Hàn Mặc Tử: nỗi cô đơn, nỗi buồn, sự trống vắng, sự khao khát yêu thương. Nhà thơ không trực tiếp bộc lộ cảm xúc của mình, mà thông qua việc miêu tả thiên nhiên, cảnh vật để gián tiếp thể hiện những nỗi niềm riêng tư.
Sự xuất hiện của hình ảnh “sân đình” gợi nhớ về những kỷ niệm tuổi thơ, về những ngày tháng tươi đẹp đã qua, nhưng đồng thời cũng làm nổi bật sự cô đơn hiện tại của nhà thơ.
Hãy cùng phân tích kỹ hơn một số câu thơ tiêu biểu:
Thông qua việc bình giảng đoạn thơ thứ hai của bài Đây thôn Vĩ Dạ, chúng ta có thể thấy rõ rằng thơ Hàn Mặc Tử là thơ trữ tình hướng nội. Nhà thơ không tập trung miêu tả thế giới bên ngoài, mà đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm, những cảm xúc, những nỗi niềm riêng tư của mình. Phong cách thơ này đã tạo nên một dấu ấn riêng biệt cho Hàn Mặc Tử trong lịch sử văn học Việt Nam.
Đoạn thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên đẹp, mà còn là một lời tâm sự chân thành, một tiếng kêu cứu thầm lặng từ trái tim cô đơn của nhà thơ. Nó khiến người đọc cảm nhận được sự đồng cảm sâu sắc và trân trọng hơn những giá trị nghệ thuật độc đáo của Hàn Mặc Tử.
Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi, tài liệu học tập