1. Trang Chủ
  2. Tài Liệu Học Tập
  3. Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của thi sĩ Xuân Diệu.

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của thi sĩ Xuân Diệu.

Phân tích bài thơ Đây Mùa Thu Tới của Xuân Diệu

Bài thơ Đây Mùa Thu Tới là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Xuân Diệu, thể hiện sự trân trọng, yêu mến cuộc sống và vẻ đẹp của thiên nhiên. Bài thơ không chỉ nổi bật về nội dung mà còn về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ độc đáo, giàu cảm xúc.

Chúng ta sẽ cùng nhau đi sâu vào phân tích các khía cạnh khác nhau của bài thơ, từ hình ảnh, ngôn ngữ đến ý nghĩa và giá trị nghệ thuật mà nó mang lại.

Thu đến, xôn xao rung động đất trời. Cảnh vật đẹp mà thoáng buồn man mác. Lòng thiếu nữ càng trở nên bâng khuâng buổi thu về.

     Xuân Diệu (1916-1985) là nhà thơ tình, viết hay nhất và nhiều nhất trong thời đại chúng ta. Thi sĩ đã để lại trên 400 bài thơ tình,; là nhà thơ "mới nhất trong những nhà thơ mới". Xuân Diệu cũng là thi sĩ của mùa thu. Với Xuân Diệu nếu "Tình không tuổi và xuân không ngày tháng" thì cảnh thu chứa đựng biết bao tình thu, bao rung động xôn xao, bởi lẽ "Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền”.

   Trong hai tập thơ viết trước Cách mạng: "Thơ thơ" và "Gửi hương cho gió " có rất nhiều bài thơ nói đến sắc thu, hương thu, trăng thu, tình thu, thiếu nữ buổi thu về... Mùa thu thật đáng yêu, làm cho tâm hồn thi sĩ như dây đàn huyền diệu đang rung lên xao xuyến...

   "Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Diệu, rút trong tập "Thơ thơ", xuất bản năm 1938. Thu đến, xôn xao rung động đất trời. Cảnh vật đẹp mà thoáng buồn man mác. Lòng thiếu nữ càng trở nên bâng khuâng buổi thu về.

   Cảm nhận đầu tiên của thi sĩ Xuân Diệu về mùa thu không phải là âm thanh tiếng chày đập vải, không phải là ấn tượng "Ngô đồng nhất diệp lạc - Thiên hạ cộng trì thu" mà là ở dáng liễu, rặng liễu ven hồ, hay bên đường:

"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng".

   Cả một không gian "đìu hiu", buồn và vắng vẻ. Rặng liễu trầm mặc như "đứng chịu tang". Lá liễu buông dài như tóc nàng cô phụ "buồn buông xuống". Lá liễu ướt đẫm sương thu tưởng như "lệ ngàn hàng". Liễu được nhân hóa "đứng chịu tang", từ tóc liễu đến lệ liễu đều mang theo bao nỗi buồn thấm thía. Một nét liễu, một dáng liễu được miêu tả và cảm nhận đầy chất thơ. Biện pháp láy âm được Xuân Diệu vận dụng tài tình để tạo nên vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu: "đìu hiu - chịu", "tang - ngàn - hàng", "buồn - buông - xuống". Đó là một điểm mạnh, khá mới mẻ trong thi pháp mà Xuân Diệu đã học tập được trong trường phái thơ tượng trưng Pháp trong thế kỉ XIX.

   Say mê ngắm "rặng liễu đìu hiu...", nhà thơ khẽ reo lên khi chợt nhận thấy thu đã đến. Cách ngắt nhịp 4/3 với điệp ngữ "mùa thu tới" đã diễn tả bước đi của mùa thu và niềm mong đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ:

"Đây mùa thu tới/mùa thu tới

 Với áo mơ phai/dệt lá vàng".

   Một vần lưng thần tình: "tới - với", một chữ "dệt" tinh tế trong miêu tả và cảm nhận. Thu vừa tới, sắc màu cỏ cây vạn vật đều đổi thay, trở thành "mơ phai". Đó đây điểm tô một vài sắc vàng của lá, đúng là "dệt lá vàng". Câu thơ "Với áo mơ phai dệt lá vàng" là một câu thơ nhiều thi vị, nói lên cái hồn thu với sắc lá, gợi lên cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng về mùa thu đáng yêu vô cùng.

   Có thể nói, khổ thơ đầu đã vẽ lên một bức tranh thu đẹp, thơ mộng, thấm một nỗi buồn từ cây cỏ đến lòng người, nhưng không ảm đạm, thê lương làm nặng trĩu lòng người.

   Mỗi ngày mỗi đêm đi qua. Thu đã về và thu dần dần trôi qua. Cảnh vật biến đổi. Hoa đã "rụng cành". Tác giả không nói "đôi ba...”, mà lại viết "hơn một" cách dùng số từ ấy cũng là một cách nói rất mới. Trong vườn, màu đỏ (từng chấm nhỏ) đang lấn dần, đã và đang "rũa màu xanh"! Cũng nói về sự biến đổi ấy, trong bài "Cảm thu, tiễn thu” thi sĩ Tản Đà viết:

"Sắc đâu nhuộm ố quan hà

 Cỏ vùng cây đỏ bóng tà tà dương".

   Cây cối bắt đầu rụng lá trơ cành như đang "run rẩy", khẽ "rung rinh" trước những làn gió thu lành lạnh, se sắt. Khổ thơ thứ hai, chất thơ ấy là sự lay động xôn xao từ cảnh vật, từ hoa lá hơi may mà thấm vào hồn thi sĩ:

"Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.

Những luồng run rẩy, rung rinh lá,

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh".

   Các từ láy: "run rẩy", "rung rinh”, "mỏng manh" là những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái rùng mình của cây lá buổi chiều thu. Nghệ thuật sử dụng các phụ âm , “r" (rụng, rũa, run rẩy, rung rinh) và phụ âm "m" (một, màu, mỏng manh) với dụng ý thẩm mĩ trong gợi tả và biểu cảm đặc sắc. Đó cũng là một nét mới trong thi pháp của Xuân Diệu.

   Khổ thơ thứ 3, thi liệu vừa hiện thực vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo. Cũng có trăng nhưng là "nàng trăng tự ngẩn ngơ" trên bầu trời. Không nói là trăng non đầu tháng, không hỏi "Trăng bao nhiêu tuổi trăng già" mà lại nói là "nàng trăng". Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Cũng ó núi, có non, lúc ẩn lúc hiện, "khởi sự" nhô lên cuối chân trời xa, qua lớp sương thu mờ. Trăng và núi trong thơ Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi và thân thuộc từ bao đời nay được vẽ lên thật đẹp:

"Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ

Non xa khởi sự nhạt sương mờ... "

   Hai tiếng "đã nghe", "đã vắng" gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi chiều thu lành lạnh:

"Đã nghe rét mướt luồn trong gió,

Đã vắng người sang những chuyến đò”

   Cấu trúc câu thơ song hành và cách diễn tả cũng rất mới. Có chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính giác. Như vậy, sự cảm nhận của thi nhân về rét, về gió, về cái xa vắng không chỉ bằng giác quan mà còn bằng cả linh hồn nữa. Chữ "luồn" đã cụ thể hóa cái rét, cảm nhận được nó bằng trực giác. Rét mướt luồn trong gió thu hiu hắt chứ không phải là gió rét. Rõ ràng là chưa rét đậm, rét tê tái, đúng là cái rét, cái lành lạnh những chiều thu, những đêm tàn thu.

   Khổ cuối là một bức tranh thu tuyệt đẹp. Có vẻ đẹp của thiên nhiên, của mây trời, cánh chim. Có vẻ đẹp thiếu nữ. Cảnh đẹp, người đẹp mà thoáng buồn mơ hồ mênh mông. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn đẹp chia li như "bèo dạt mây trôi" của tình ca! Thi sĩ đã lấy cái "động" của cánh chim bay, của áng mây chiều trôi để đặc tả cái êm đềm, yên tĩnh của cõi vật và lòng người:

"Mây vẩn từng không chim bay đi,

Khí trời u uất hận chia li"...

   Trong cái êm đềm, xa vắng ấy hiện lên hình ảnh thiếu nữ "ít nhiều" chưa xác định. Buồn tương tư, "buồn không nói". Một dáng điệu "tựa cửa nhìn xa", một tâm hồn "nghĩ ngợi gì" rất mơ hồ, xa xăm:

"Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,

Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì"

   Là mùa xuân hay mùa thu, là mùa hè hay mùa đông, giữa thiên nhiên trăm sắc nghìn hương ấy, hình ảnh thiếu nữ đa tình, duyên dáng luôn luôn thấp thoáng qua những vần thơ của Xuân Diệu. Thi sĩ đa tình nên thiếu nữ cũng đa tình?

"Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm

Hây hây thục nữ mắt như thuyền".

("Nụ cười xuân" - Thơ thơ)

   Trong chùm thơ thu của Yên Đổ, tình thu buồn thấm thía cô đơn được thể hiện qua hình ảnh một ông lão, lúc đang "tựa gối ôm cần" trên một chiếc thuyền câu "bé tẻo teo" giữa chiếc ao thu "lạnh lẽo", lúc là một cụ già đang ngồi uống rượu ngà ngà say trong đêm sâu, có lúc lại là một nhà nho đang lặng ngắm cảnh thu, muốn cầm bút đề thơ mà phân vân, lưỡng lự... Còn trong thơ thu của Xuân Diệu là hình bóng một giai nhân trong tương tư, đang mộng tưởng. Đó cũng là một nét mới nói về mùa thu trong thơ Xuân Diệu. Có thể nói trạng thái buồn mơ hồ, buồn không rõ nguyên cớ là một nét tâm trạng rất điển hình của hồn thơ Xuân Diệu:

"Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói... "

Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn...".

   Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Điệu. Bao nhiêu nét thu là bấy nhiêu nét vẽ tài hoa. Dáng thu, sắc thu, tình thu đều đẹp mà buồn, bao nên cái hồn thu mênh mang, xao xuyến. Đáng yêu nhất là hình ảnh thiếu nữ, một dáng thu yêu kiều mộng tưởng "Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì". Một trái tim đa tình, một ngòi bút tài hoa. Cách cảm và cách diễn tả rất mới, rất thơ. Đằng sau những sắc thu của đất trời, hoa lá, cây cỏ, của núi xa, của nàng trăng, của làn gió thu se lạnh,... là tiếng thu xôn xao, rung động trong tâm hồn thi sĩ tuổi đôi mươi và trong lòng thiếu nữ tuổi trăng tròn. Bài thơ cho ta nhiều ngẩn ngơ say cái hương sắc mùa thu xưa, mùa thu Hà Nội hơn nữa.

Phân tích chi tiết bài thơ Đây Mùa Thu Tới của Xuân Diệu

Xuân Diệu, một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, nổi tiếng với phong cách thơ yêu đời, yêu người mãnh liệt. Bài thơ “Đây Mùa Thu Tới” là một minh chứng rõ ràng cho điều đó. Bài thơ được sáng tác trong giai đoạn Xuân Diệu đang đối mặt với bệnh tật, nhưng vẫn tràn đầy niềm tin và tình yêu cuộc sống.

1. Bối cảnh sáng tác và xuất xứ của bài thơ

“Đây Mùa Thu Tới” được sáng tác vào năm 1960, được in trong tập thơ “Riêng chung”. Bài thơ ra đời trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, với những khó khăn và thách thức. Tuy nhiên, Xuân Diệu vẫn giữ vững niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước và con người.

2. Phân tích nội dung bài thơ

Bài thơ “Đây Mùa Thu Tới” có thể chia thành ba phần chính:

  • Phần 1 (Khổ 1-2): Miêu tả bức tranh thiên nhiên mùa thu với những hình ảnh quen thuộc như lá vàng rơi, gió heo may, trời xanh. Tuy nhiên, bức tranh thiên nhiên này không mang vẻ buồn bã, u sầu mà lại tràn đầy sức sống và niềm vui.
  • Phần 2 (Khổ 3-4): Thể hiện cảm xúc của nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa thu. Nhà thơ cảm thấy hạnh phúc, tràn đầy năng lượng khi được hòa mình vào thiên nhiên.
  • Phần 3 (Khổ 5-6): Khẳng định niềm tin vào cuộc sống và tương lai. Nhà thơ tin rằng, dù cuộc sống có khó khăn, vất vả, nhưng chúng ta vẫn cần phải yêu đời, yêu người và sống hết mình.

3. Phân tích nghệ thuật của bài thơ

Xuân Diệu đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật độc đáo để làm cho bài thơ trở nên sinh động và hấp dẫn:

  • Hình ảnh: Bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh tươi đẹp, giàu sức gợi tả như “lá vàng rơi”, “gió heo may”, “trời xanh”.
  • Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị, nhưng lại giàu cảm xúc và sức biểu cảm.
  • Nhịp điệu: Bài thơ có nhịp điệu nhanh, mạnh mẽ, thể hiện sự sôi nổi, yêu đời của nhà thơ.
  • So sánh, ẩn dụ: Sử dụng so sánh và ẩn dụ để tăng tính biểu cảm cho bài thơ. Ví dụ: “Mùa thu tới như người dưng qua đường”.

4. Ý nghĩa của bài thơ

“Đây Mùa Thu Tới” là một bài thơ hay, ý nghĩa, thể hiện tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên của Xuân Diệu. Bài thơ không chỉ có giá trị nghệ thuật cao mà còn có giá trị nhân văn sâu sắc. Bài thơ nhắc nhở chúng ta hãy trân trọng những gì mình đang có, hãy sống hết mình và yêu đời, yêu người.

5. Tổng kết

Bài thơ “Đây Mùa Thu Tới” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Xuân Diệu, góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam hiện đại. Bài thơ vẫn còn nguyên giá trị và sức sống đến tận ngày nay.

Khía cạnhNội dung
Thể loạiThơ lục bát
Xuất xứTập thơ “Riêng chung” (1960)
Chủ đềTình yêu cuộc sống, vẻ đẹp của thiên nhiên

Hy vọng bài phân tích này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về bài thơ “Đây Mùa Thu Tới” của Xuân Diệu. Hãy cùng nhau thưởng thức và cảm nhận vẻ đẹp của tác phẩm này!

Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!

VỀ TUSACH.VN