Khổ thơ thứ hai trong bài Đây thôn Vĩ Dạ là một đoạn thơ tiêu biểu, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật độc đáo của Hàn Mặc Tử.
Bài viết này sẽ đi sâu vào phân tích hình ảnh, ngôn ngữ và ý nghĩa nghệ thuật của khổ thơ, giúp bạn hiểu rõ hơn về vẻ đẹp và giá trị của tác phẩm.
Khổ thơ trên đây, mỗi câu, mỗi chữ, mỗi vần thơ đều thấm đẫm tình thương nhớ và một nỗi "buồn thiu" lẻ loi, vần thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Hàn Mặc Tử và bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ"
- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận
2. Thân bài
- Giới thiệu khái quát về khổ thơ thứ hai, trích khổ thơ
- Cảm nhận về vẻ đẹp thiên nhiên của xứ Huế:
+ Gió, mây, trời mờ ảo, gợi sự cô đơn, lạnh lẽo
+ "Gió theo lối gió mây đường mây", có gió có mây nhưng lại chia đôi ngả thể hiện cho sự xa cách, chia lìa.
+ Mọi cảnh vật gió, mây, nước được nhân hóa mang tâm trạng, nỗi buồn
+ Sự chuyển động khẽ, nhẹ nhàng chứa đựng u buồn, hắt hiu, kém sự sống
- Cảm nhận tâm hồn, tâm trạng của nhà thơ
+ Dòng sông trở nên huyền ảo lấp lánh ánh trăng vàng làm cho không gian càng thêm mênh mang.
+ Hình ảnh con thuyền trên bến sông gợi sự chờ đợi trong vô vọng, mỏi mòn.
+ Câu hỏi tu từ cho thấy sự mong chờ da diết của tác giả, những nỗi niềm tâm sự còn giấu kín.
+ Mong muốn được sẻ chia, tâm sự của tác giả, khát vọng về một tình yêu kín đáo, tha thiết
3. Kết bài
- Cảm nhận về khổ thơ và tâm trạng của nhân vật trữ tình
Huế đẹp và thơ. Núi sông diễm lệ. Con gái Huế xinh tươi và đa tình. Nếp sống thanh lịch của miền núi Ngự sông Hương đã trở thành ấn tượng và cảm mến sâu sắc đối với bao người gần xa:
"Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ
Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt..."
Thơ ca viết về Huế có nhiều bài hay. Tiêu biểu là bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử (1912 - 1940), nhà thơ lỗi lạc trong phong trào "Thơ mới". Bài thơ có ba khổ thớ thất ngôn nói về cảnh sắc và cô gái Vĩ Dạ trong hoài niệm với bao cảm xúc bâng khuâng, man mác, thẫn thờ.
Vĩ Dạ, một làng cổ xinh đẹp nằm bên bờ Hương Giang thuộc cố đô Huế, qua hồn thơ Hàn Mặc Tử mà trở nên gần gũi yêu thương đối với nhiều người trong bảy mươi năm qua. Đây là khổ thơ thứ hai của bài "Đây thôn Vĩ Dạ":
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh vật thôn Vĩ khi "nắng mai lên"... Ở khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử nhớ đến một miền sông nước mênh mang, bao la, một không gian nghệ thuật nhiều thương nhớ và lưu luyến. Có gió, nhưng “ gió theo lối gió". Cũng có mây, nhưng "mây đường mây". Mây gió đôi đường, đôi ngả:
"Gió theo lối ,gió/mây đường mây".
Cách ngắt nhịp 4/3, với hai vế tiểu đối, gợi tả một không gian gió, mây chia xa, như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Chữ "gió" và "mây" được điệp lại hai lần trong mỗi vế tiểu đối đã gợi lên một bầu trời thoáng đãng, mênh mông. Thi nhân đã và đang sống trong cảnh ngộ chia li và xa cách nên mới cảm thấy gió mây đôi ngả đôi đường như tình và lòng người bấy nay. Ngoại cảnh gió mây chính là tâm cảnh Hàn Mặc Tử.
Không có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có "Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay". Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm. Sông Hương lững lờ trôi xuôi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã hoá thành "dòng nước buồn thiu", càng thêm mơ hồ, xa vắng. "Buồn thiu" là buồn héo hon cả gan ruột, một nổi buồn day dứt triền miên, cứ thấm sâu mãi vào hồn người. Hai tiếng “buồn thiu” là cách nói của bà con xứ Huế. Bờ bãi đôi bờ sông cũng vắng vẻ, chỉ nhìn thấy "hoa bắp lay". Chữ “ lay" gợi tả hoa bắp đung đưa trong làn gió. Hoa bắp, hoa bình dị của đồng nội cũng mang tình người và hồn người.
Hai câu thơ thất ngôn với bốn thi liệu (gió, mây, dòng nước, hoa bắp) đã hội tụ hồn vía cảnh sắc thôn Vĩ. Hình như đó là cảnh chiều hôm? Hàn Mặc Tử tả ít mà gợi nhiều, tượng trưng mà ấn tượng. Ngoại cảnh thì chia lìa, buồn lặng lẽ biểu hiện một tâm cảnh: thấm thía nỗi buồn xa vắng, cô đơn.
Hai câu thơ tiếp theo gợi nhớ một cảnh sắc thơ mộng, cảnh đêm trăng trên Hương Giang ngày nào. "Dòng nước buồn thiu" đã biến hoá kì diệu thành "sông trăng" thơ mộng:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?".
Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử được nhiều người ngợi ca, kết tinh rực rỡ bút pháp nghệ thuật tài hoa lãng mạn. Một vần lưng tài tình. Chữ "đó" cuối câu 3 bắt vần với chữ "có" đầu câu 4, âm điệu vần thơ cất lên như một tiếng khẽ hỏi thầm "có chở trăng về kịp tối nay?". "Thuyền ai" phiếm chỉ gợi lên bao ngỡ ngàng bâng khuâng, tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa xôi. Con thuyền mồ côi nằm trên bến đợi "sông trăng" là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo. Đã có "Thuyền ai đậu bến Cô Tô" hiện lên trong ánh trăng tà và tiếng quạ kêu sương trong thơ Trương Kế đời Đường. Đã có "Sông xuân đâu chẳng sáng ngời trăng" trong "Xuân giang hoa nguyệt dạ" của Trương Nhược Hư, 1300 năm về trước. Lại có cảnh "Gió trăng chứa một thuyền đầy" (Nguyễn Công Trứ). Còn có "Trăng sông Trà như tấm gương soi dòng nước bạc” (Cao Bá Quát) Qua đó, ta thấy hình tượng "sông trăng" là mới mẻ, sáng tạo. Cả hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu thơ nào cũng có trăng. Ánh trăng tỏa sáng dòng sông, con thuyền và bến đò. Con thuyền không chở người (vì người xa cách chia li) mà chỉ "chở trăng về". Phải "về kịp tối nay" vì đã cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng. Con thuyền tình của ước vọng nhưng đã thành vô vọng! Bến sông trăng trở nên vắng lặng vì "thuyền ai" chỉ là con thuyền mồ côi.
Sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi và sông trăng, cảnh đẹp một cách mộng ảo. Cả ba hình ảnh ấy đều biểu hiện một nỗi niềm, một tâm trạng cô đơn, thương nhớ đôi với cảnh và người nơi thôn Vĩ. Như ta đã biết, thời trai trẻ, Hàn Mặc Tử đã từng học ở Huế từng có một mối tình đơn phương với một thiếu nữ thôn Vĩ, mang tên một loài hoa. Với chàng thi sĩ tài hoa, đa tình và bất hạnh, đang sống trong cô đơn và bệnh tật, nhớ Vĩ Dạ là nhớ cảnh cũ người xưa. Cảnh "gió theo lối gió, mây đường mây", cảnh "thuyền ai đậu bến sông trăng đó" là cảnh đẹp mà buồn. Buồn vì chia lìa, xa vắng, lẻ loi và vô vọng.
Khổ thơ trên đây, mỗi câu, mỗi chữ, mỗi vần thơ đều thấm đẫm tình thương nhớ và một nỗi "buồn thiu" lẻ loi, vần thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Thơ Hàn Mặc Tử, đúng là thơ trữ tình hướng nội "tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này"...
Khổ thơ thứ hai trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử là một đoạn thơ mang đậm tính biểu tượng, thể hiện sự giao thoa giữa thế giới thực và thế giới mộng tưởng, giữa sự sống và cái chết. Để hiểu rõ hơn về vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc của khổ thơ này, chúng ta cần đi sâu vào phân tích các yếu tố nghệ thuật được sử dụng.
“Người dưng mua vải lụa đào,Tôi mua ánh trăng cài đầu.Người dưng kết hạt mân côi,Tôi kết trăng thành chuỗi ngọc.”
Khổ thơ mở đầu bằng hình ảnh đối lập giữa “người dưng” và “tôi”. “Người dưng” đại diện cho những người bình thường, sống trong thế giới thực, với những nhu cầu vật chất giản dị như mua vải lụa đào, kết hạt mân côi. Trong khi đó, “tôi” – chủ thể trữ tình – lại có những hành động kỳ lạ, mang tính chất siêu thực như mua ánh trăng cài đầu, kết trăng thành chuỗi ngọc.
Hình ảnh “ánh trăng” và “chuỗi ngọc” là những hình ảnh đẹp, lãng mạn, mang tính chất ước lệ. Ánh trăng tượng trưng cho vẻ đẹp thanh khiết, trong sáng, đồng thời cũng là biểu tượng của sự cô đơn, lẻ loi. Chuỗi ngọc tượng trưng cho sự giàu có, quý giá, nhưng đồng thời cũng mang một vẻ đẹp lạnh lẽo, xa cách.
Ngôn ngữ được sử dụng trong khổ thơ rất tinh tế, giàu hình ảnh và biểu cảm. Các từ ngữ như “mua”, “cài”, “kết” được sử dụng một cách khéo léo, tạo nên một không gian thơ mộng, huyền ảo.
Khổ thơ thứ hai thể hiện rõ phong cách nghệ thuật độc đáo của Hàn Mặc Tử, đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa siêu thực. Qua hình ảnh đối lập giữa “người dưng” và “tôi”, tác giả muốn thể hiện sự khác biệt giữa thế giới thực và thế giới mộng tưởng, giữa sự sống và cái chết.
Khổ thơ cũng thể hiện nỗi cô đơn, nỗi khát khao tình yêu của tác giả. “Tôi” muốn tìm kiếm một vẻ đẹp vĩnh cửu, một tình yêu hoàn hảo, nhưng lại không thể tìm thấy nó trong thế giới thực. Vì vậy, “tôi” đành tìm đến thế giới mộng tưởng, nơi có ánh trăng và chuỗi ngọc.
Khổ thơ thứ hai có vai trò quan trọng trong việc xây dựng không gian nghệ thuật và thể hiện chủ đề của bài thơ. Nó là một bước ngoặt trong sự phát triển của cảm xúc, từ sự ngỡ ngàng, thích thú trước vẻ đẹp của thôn Vĩ Dạ đến sự cô đơn, nỗi buồn man mác.
Khổ thơ này cũng là một trong những khổ thơ tiêu biểu nhất của Hàn Mặc Tử, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật độc đáo và tài năng sáng tạo của ông.
Bình giảng khổ thơ thứ hai bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, chúng ta có thể thấy được sự tài hoa của nhà thơ trong việc sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ và biểu tượng để thể hiện những cảm xúc sâu sắc và những suy tư về cuộc đời. Khổ thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị mà còn là một lời nhắn nhủ về vẻ đẹp của sự cô đơn, về nỗi khát khao tình yêu và về sự tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống.
Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi, tài liệu học tập