1. Trang Chủ
  2. Tài Liệu Học Tập
  3. Văn bản Phân tích bài thơ “Việt Bắc” (Nguyễn Văn Hạnh)

Văn bản Phân tích bài thơ “Việt Bắc” (Nguyễn Văn Hạnh)

Phân tích bài thơ Việt Bắc (Nguyễn Văn Hạnh) - Tổng quan

Bài phân tích của Nguyễn Văn Hạnh là một tài liệu học tập quan trọng, giúp học sinh, sinh viên hiểu sâu sắc hơn về giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc.

Văn bản này đi sâu vào việc giải mã những hình ảnh thơ độc đáo, những cảm xúc tinh tế mà nhà thơ muốn truyền tải qua tác phẩm.

Tusach.vn xin giới thiệu đến bạn đọc văn bản phân tích đầy đủ và chi tiết nhất.

Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc

Phân tích bài thơ “Việt Bắc”

Nguyễn Văn Hạnh

Tháng 10-1954, Tố Hữu hoàn thành bài thơ Việt Bắc, một tác phẩm gồm 150 câu viết theo thể lục bát, phát triển một cách độc đáo và sáng tạo thể thơ truyền thống của dân tộc, làm cho bài thơ đậm đà tính chất dân gian và cổ điển, đồng thời cũng rất mới mẻ trong tư tưởng và chất liệu hiện thực, trong hình ảnh, giọng thơ, nhịp điệu và ngôn ngữ. […]

Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm, là một bài ca tâm tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu, nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp là Mi-ren Găng-sen (Mireille Gansel), Tố Hữu tâm sự rằng anh “phải lòng” đất nước và nhân dân mình, và đã nói về đất nước, về nhân dân như nói với người đàn bà mình yêu. Cho nên, tình yêu biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm rất đáng ghi nhớ.

Bài thơ cấu tạo theo lối đối đáp thường gặp trong văn học dân gian, đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng, nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Người ở lại với rừng núi nhạy cảm, cả nghĩ hơn trước những thay đổi trong cuộc sống, sợ bạn mình không giữ được thuỷ chung trước “cám dỗ” mới, cho nên luôn gợi nhớ về kỉ niệm và băn khoăn không nguôi, hỏi mình, hỏi bạn:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Hoá ra người về cũng cùng một tâm trạng, cũng tỉnh nghĩa thuỷ chung như bạn mình:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu...

Ở chiều sâu của suy nghĩ, thơ là tâm trạng thống nhất của những người kháng chiến, của chính bản thân nhà thơ, tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, giọng thơ. Có thể nói đối đáp là cấu tạo bên ngoài, mà độc thoại, tự biểu hiện là cấu tạo bên trong.

Do sự thâm nhập giữa đối đáp và độc thoại đó, mà trong bài thơ “ta” và “mình” không phải lúc nào cũng là hai nhân vật tách biệt, mà có khi chuyển hoá lẫn nhau. Mới nhìn qua thì đúng là hai người, kẻ về người ở:

Mình về mình có nhớ ta

Nhưng đi sâu hơn thì “mình” cũng là “ta”, “ta” cũng là “mình”, “ta” và “mình” hoà làm một. Cuộc trò chuyện giữa hai người sống gắn bó, tình nghĩa với nhau bao nhiêu năm, cùng chung kỉ niệm và mong ước, cùng chung tâm trạng buổi phân li cũng là sự xúc động, nỗi băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong một con người. Cho nên bên cạnh những hình ảnh “ta” và “mình” tách biệt nhau, đối đáp với nhau, ta sẽ không lấy làm lạ khi nhà thơ viết:

Hoặc:

Mình đi, mình có nhớ mình

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. Mình là bản thân mình, là ta, nhưng mình cũng là người khác, một người khác thân thiết với mình, người bạn đời của mình, vì vậy cũng có thể xem như chính mình. Mình là một mà cũng là hai, là hai mà cũng là một. Bài thơ vừa thống nhất, vừa biến hoá, giữ vững tính mẫu mực của thể lục bát trong một bài thơ có dung lượng lớn như vậy mà không rơi vào đơn điệu. [...]

Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động:

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu,

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Nét đặc sắc cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, mà son sắt, thuỷ chung với Cách mạng. Người đã vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Những câu thơ như “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, hay “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” vừa dân dã, vừa cổ điển, cân đối, cô đúc, lại ngân vang, dìu dặt, thắt buộc, thân thuộc mà mới mẻ, lạ lùng.

Bài thơ có một ý vị đậm đà, đặc biệt do nỗi nhớ: nỗi nhớ trong người về và kẻ ở, trong lời đáp và cả trong câu hỏi. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại, cồn cào, da diết. Cuộc sống, hình ảnh qua thời gian đã biến thành kỉ niệm, thành tình cảm, lúc rõ nét, thấm thía, lúc lại mơ màng, xa vợi, chung rất chung, mà riêng cũng riêng đến từng chi tiết:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khỏi cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ không tách rời với thương, nhớ chính vì thương.

Trong bài thơ, cái nghĩa đậm đà, cái tình đằm thắm vốn là sở trường trong hồn thơ và giọng thơ Tố Hữu được kết hợp với một khả năng quan sát tinh tế. Người đọc như được sưởi ấm bởi cái tình “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, càng thấy thân thiết gấp bội những hình ảnh đặc sắc của Việt Bắc được nhà thơ gợi lại:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Những câu thơ viết tự nhiên, thoải mái, như tuôn chảy từ tấm lòng không một chút dụng công, mà có nỗi nhớ của bốn mùa, hình ảnh cả bốn mùa, lúc vắng lặng hiu hắt, lúc rộn ràng, tươi xanh mát dịu. Phải quan sát kĩ, phải có cái tình thiết tha vô hạn với con người, với thiên nhiên Việt Bắc, mới ghi được những hình ảnh ấm áp và ngời sáng như vậy. [...]

Kháng chiến và cách mạng đã xua tan bớt nét hiu hắt âm u của Việt Bắc, làm tăng thêm cảnh thơ mộng của nó và dưa vào dây không khí chiến đấu hào hùng của dân tộc.

Rừng núi tình nghĩa cũng là rừng núi chiến đấu rất kiên cường. Và tâm hồn con người ngọt ngào, chung thuỷ giản dị trong cuộc sống hằng ngày cũng hân hoan, rộng mở trước những cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng.

Chất hùng tráng trong những câu thơ như:

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

đã làm cho bài thơ sôi nổi và đổi mới hẳn đi về âm hưởng và nhịp điệu. Nói đến thiên nhiên của Việt Bắc, tấm lòng chân thật, tình nghĩa sắt son của người Việt Bắc, thơ Tố Hữu đằm thắm như ca dao, dân ca. Nhưng khi miêu tả không khí sôi nổi của sinh hoạt cách mạng và chiến đấu thì thơ ông lại náo nức, trầm hùng.

Tố Hữu thường chú ý cách diễn đạt quen thuộc với cảm nghĩ của quần chúng, thích nhịp điệu êm ái, cân đối của câu thơ dân gian và cổ điển, và từ cơ sở này mà đổi mới, sáng tạo về cách diễn đạt, về hình ảnh và ngôn ngữ để phù hợp với thực tế cuộc sống và tư tưởng cần thể hiện.

Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này mà đạt đến một thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống.

Đoạn thơ viết về Bác ở gần cuối bài là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ:

Mình về với Bác đường xuôi

Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người

Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời

Áo nâu tủi vải, đẹp tươi lạ thường!

Nhớ Người những sáng tinh sương

Ung dung yên ngựa trên đường suối reo

Nhớ chân Người bước trên đèo

Người đi, rừng núi trông theo bóng Người.....

Nhà thơ Xuân Diệu cho đây là một bức hoạ. Bằng những nét chấm phá tinh tế theo tinh thần hội hoạ phương Đông, nhà thơ đã dựng nên một bức tranh đầy chất thơ, chất nhạc, rất trữ tình và giàu sức gợi tả. Hình ảnh, phong độ của Bác ở đây rất mực giản dị, ung dung, thanh thoát. Nghệ thuật đặc tả hình ảnh Bác trong đoạn thơ không chỉ thể hiện chân thực cách cảm thụ, suy nghĩ của người miền núi đang đóng vai người đưa tiễn trong bài, mà còn rất phù hợp với tâm hồn và phong độ của Bác, với phong cách của Tố Hữu khi viết về Bác mà ta đã bắt gặp trong nhiều bài thơ trước đó.

Càng hiểu Bác, càng lĩnh hội được nét đặc trưng của tính cách Việt Nam thể hiện trong đời sống cũng như trong nghệ thuật dân gian và cổ điển, Tố Hữu thường tránh những màu sắc sặc sỡ, những đường nét dứt khoát. Đó cũng là chỗ khác biệt dễ nhận thấy qua hình tượng Bác Hồ trong những bài thơ của Tố Hữu thời kì đầu Cách mạng và về sau. Trên con đường phát hiện ra sự thật đó, bài thơ Việt Bắc là một cái mốc quan trọng phản ánh được chân thực tư tưởng, tình cảm của nhân dân, theo cách suy nghĩ và diễn đạt rất gần gũi với quần chúng đông đảo, với trình độ nghệ thuật cao. Bài thơ Việt Bắc thật sự là một trong những bài thơ hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ hiện đại của chúng ta.

 (Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001)

Văn bản Phân tích bài thơ “Việt Bắc” (Nguyễn Văn Hạnh)

Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến Việt Nam. Bài thơ thể hiện tình cảm sâu sắc của người cách mạng đối với cuộc kháng chiến trường kỳ và tình yêu mến, gắn bó với miền Bắc Việt Nam. Văn bản phân tích của Nguyễn Văn Hạnh đã làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật và nội dung đặc sắc của tác phẩm này.

I. Giới thiệu chung về bài thơ Việt Bắc và tác giả Tố Hữu

Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ của ông mang đậm tính chính trị, xã hội, thể hiện tinh thần yêu nước, yêu dân sâu sắc. “Việt Bắc” được sáng tác năm 1954, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng. Bài thơ là lời tâm tình của người cán bộ cách mạng về lại chiến khu Việt Bắc sau những năm gian khổ, ác liệt.

II. Phân tích nội dung bài thơ Việt Bắc

Bài thơ “Việt Bắc” có thể chia thành ba phần chính:

  1. Phần 1 (Khổ 1-3): Kỷ niệm về Việt Bắc xưa – những năm tháng gian khổ mà vẻ đẹp của vùng đất và con người Việt Bắc đã nuôi dưỡng, che chở cho cuộc kháng chiến.
  2. Phần 2 (Khổ 4-6): Kỷ niệm về cuộc sống chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Việt Bắc.
  3. Phần 3 (Khổ 7-12): Tình cảm gắn bó, thủy chung của người cách mạng với Việt Bắc và lời hứa hẹn về một tương lai tươi sáng.

Nguyễn Văn Hạnh trong văn bản phân tích của mình đã chỉ ra rằng, Việt Bắc không chỉ là một địa danh mà còn là biểu tượng của cuộc kháng chiến, của tinh thần cách mạng. Những hình ảnh như “rừng xanh”, “núi cao”, “mây trắng” không chỉ miêu tả cảnh vật thiên nhiên mà còn gợi lên những kỷ niệm sâu sắc về những năm tháng chiến đấu gian khổ. Tác giả đặc biệt chú trọng phân tích các biện pháp nghệ thuật mà Tố Hữu sử dụng để khắc họa vẻ đẹp của Việt Bắc và con người Việt Bắc, như sử dụng các từ ngữ giàu hình ảnh, sử dụng các biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hóa…

III. Phân tích nghệ thuật bài thơ Việt Bắc

“Việt Bắc” là một bài thơ trữ tình chính trị đặc sắc, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và chất chính trị. Bài thơ sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật tiêu biểu của thơ ca Việt Nam, như:

  • Thể thơ lục bát: Tạo nên nhịp điệu uyển chuyển, du dương, phù hợp với nội dung trữ tình của bài thơ.
  • Ngôn ngữ thơ: Giàu hình ảnh, biểu cảm, sử dụng nhiều từ ngữ mang tính dân tộc, gần gũi với đời sống của nhân dân.
  • Hình ảnh thơ: Đẹp, độc đáo, gợi lên những cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.

Nguyễn Văn Hạnh đã phân tích sâu sắc về việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật này, chỉ ra rằng chúng đã góp phần làm cho bài thơ trở nên sống động, chân thực và giàu cảm xúc.

IV. Ý nghĩa của bài thơ Việt Bắc

“Việt Bắc” là một bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật to lớn. Bài thơ thể hiện tình cảm sâu sắc của người cách mạng đối với cuộc kháng chiến và tình yêu mến, gắn bó với miền Bắc Việt Nam. Đồng thời, bài thơ cũng là lời ca ngợi vẻ đẹp của đất nước, con người Việt Nam và tinh thần cách mạng của nhân dân ta.

Văn bản phân tích của Nguyễn Văn Hạnh đã giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn về những giá trị này, từ đó thêm yêu quý và trân trọng tác phẩm “Việt Bắc” của Tố Hữu.

Kết luận

Văn bản phân tích bài thơ “Việt Bắc” của Nguyễn Văn Hạnh là một tài liệu tham khảo hữu ích cho học sinh, sinh viên và những người yêu thích văn học. Hy vọng rằng, thông qua văn bản này, bạn đọc sẽ có thêm những kiến thức và hiểu biết sâu sắc về tác phẩm “Việt Bắc” và thơ ca Tố Hữu.

Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!

VỀ TUSACH.VN