Văn bản Bình Ngô đại cáo là một áng văn bất hủ của Nguyễn Trãi, được viết năm 1428 sau chiến thắng oanh liệt trước quân Minh xâm lược.
Tác phẩm không chỉ là bản tuyên ngôn độc lập, khẳng định chủ quyền dân tộc mà còn thể hiện khát vọng hòa bình, mong muốn xây dựng đất nước thái bình, thịnh vượng.
Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Bình Ngô đại cáo
(Đại cáo bình Ngô)
Nguyễn Trãi
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiếp thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã,
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiên hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bản nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lung mò ngọc, ngăn thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những nỗi phu phen,
Tan tác cả nghề canh củi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Ngẫm thù lớn hả đội trời chung
Căm giặc nước thể không cùng sống.
Đau lòng nhúc ốc, chốc đã mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, hả phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tỉnh;
Ngẫm trước đến nay, lẽ hung phê đắn đo càng kĩ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoản một nỗi đồ hồi.
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thủ đương mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu.
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đầu,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả
Thế mà:
Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi,
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
Phần thì lo vận nước khó khăn.
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khỏi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
Ta gắng chỉ khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dụng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào
Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh;
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lâm trúc chẻ tro bay,
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí , Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại;
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đã phải bêu đầu;
Một gian kẻ thù, Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông 12 gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy;
Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đại bại vong giặc đã trí cùng lực kiệt;
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ;
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác;
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.
Đinh Mùi tháng Chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn tiến lại;
Năm ấy tháng Mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong;
Ta sau lại sai tướng chọn đường, tuyệt nguồn lương thực.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu,
Ngày hăm lăm, Bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hãm tám, Thượng thu Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đã ta đưa lưỡi dao tung phạt,
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau,
Lại thêm quân bốn mặt vây thành,
Hẹn đến giữa tháng Mười diệt giặc.
Sĩ tốt kén người hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,
Gươm mài đã, đã núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kinh ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông.
Nổi gió to trút sạch lá khô,
Thông tổ kiến phá toang đế vỡ,
Đô đốc Thôi Tự là gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường;
Xuơng Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chẹn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật
Thua quân ta ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc;
Thành Đan Xá thấy chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp;
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đôi vẫy đuôi xin cứu mạng;
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu,
Cũng là chưa thấy xưa nay.
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay.
(Bản dịch của Bùi Kĩ, in trong Ngữ văn 10, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2021, tr. 17 – 22)
Văn bản Bình Ngô đại cáo, còn được biết đến với tên gọi Hịch tướng sĩ, là một tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Trãi, một nhà văn hóa, nhà quân sự kiệt xuất của Việt Nam. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1428, sau khi quân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đánh tan quân Minh xâm lược, giành lại độc lập cho đất nước sau 24 năm đô hộ.
Bối cảnh lịch sử của tác phẩm là một giai đoạn đầy biến động và thử thách đối với dân tộc Việt Nam. Từ năm 1406, nhà Minh đã xâm lược Đại Việt, lập nên ách đô hộ tàn bạo. Nhân dân ta đã trải qua nhiều cuộc khởi nghĩa, nhưng đều thất bại. Đến năm 1418, Lê Lợi, một người nông dân yêu nước, đã đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi quân Minh, giành lại độc lập cho đất nước.
Văn bản Bình Ngô đại cáo có thể chia thành hai phần chính:
Giá trị nghệ thuật của tác phẩm thể hiện ở:
"Việc nhân dân ai cũng muốn hoàn toàn độc lập, ai cũng muốn tươi vui, ấm no. Nhưng từ xưa đến nay, chẳng ai dám đứng lên chống lại cường quyền, chẳng ai dám nói lên tiếng nói của dân tộc." Đoạn văn này thể hiện rõ lòng yêu nước sâu sắc của Nguyễn Trãi, đồng thời vạch trần sự tàn bạo của chế độ phong kiến, sự bất công của xã hội.
"Nay chúng ta đã đánh tan quân Minh, giành lại độc lập cho đất nước. Nhưng chúng ta không thể ngủ quên trên chiến thắng, chúng ta phải luôn cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù." Đoạn văn này thể hiện tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân dân ta, đồng thời kêu gọi tướng sĩ phải đoàn kết, chung sức xây dựng đất nước.
Văn bản Bình Ngô đại cáo không chỉ có giá trị lịch sử to lớn mà còn có ý nghĩa thời sự sâu sắc trong thời đại ngày nay. Tác phẩm nhắc nhở chúng ta về tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí độc lập, tự do. Đồng thời, tác phẩm cũng kêu gọi chúng ta phải luôn cảnh giác, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Văn bản Bình Ngô đại cáo là một áng văn bất hủ của Nguyễn Trãi, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc, tinh thần quyết chiến quyết thắng và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm là một bản tuyên ngôn độc lập, khẳng định chủ quyền dân tộc và là một bài ca ca ngợi chiến thắng oanh liệt của quân dân ta trước quân Minh xâm lược.
| Tác giả | Thời gian sáng tác | Thể loại |
|---|---|---|
| Nguyễn Trãi | 1428 | Hịch |
Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi, tài liệu học tập