1. Trang Chủ
  2. Tài Liệu Học Tập
  3. Văn bản Nam quốc sơn hà – Bài thơ thần khẳng định chân lý độc lập của đất nước

Văn bản Nam quốc sơn hà – Bài thơ thần khẳng định chân lý độc lập của đất nước

Văn bản Nam quốc sơn hà – Tuyên ngôn độc lập hùng mạnh

Bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt là một áng văn bất hủ, thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam.

Tác phẩm không chỉ là một bài thơ tuyệt vời về mặt nghệ thuật mà còn là một tuyên ngôn độc lập, khẳng định chủ quyền thiêng liêng của đất nước trước mọi thế lực xâm lược.

Chân lí độc lập chủ quyền của đất nước đã được tác giả khẳng định từ đầu bài thơ. Ngay từ cầu thơ mở dầu, người dọc đã bắt gặp tiếng nói khẳng định sông núi nước Nam là “vua Nam ở” (Nam để cư).

Nam quốc sơn hà – Bài thơ thần khẳng định chân lý độc lập của đất nước

Theo Nguyễn Hữu Sơn

Chân lí độc lập chủ quyền của đất nước đã được tác giả khẳng định từ đầu bài thơ. Ngay từ cầu thơ mở dầu, người dọc đã bắt gặp tiếng nói khẳng định sông núi nước Nam là “vua Nam ở” (Nam để cư). Trong chữ Hán, chữ “đế” và chữ “vương” đều dịch là “vua”, đều là đại diện cho nước cho dân. Tuy nhiên “đế” bao giờ cũng cao hơn “vương”. Trong xã hội phong kiến Trung Hoa thường tồn tại vị hoàng đế có uy quyền tuyệt đối trong một triều đại chính thống, còn lại người đứng đầu các nước nhỏ yếu bốn phương nếu quy phục sẽ được phong vương.

Tại Việt Nam dưới thời Bắc thuộc, ngay cả thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa cũng chỉ gắn với chữ “vương" như Trưng Nữ Vương" (Trưng Trắc – Trưng Nhị), “Triệu Việt Vương” (Triệu Quang Phục), Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng) “Tiền Ngô Vương” (Ngô Quyền). [...] Rõ ràng với sự trưởng thành của ý thức dân tộc và quyền độc lập dân lộc, câu thơ đã nhấn mạnh việc nước Nam có quyền tự chủ, có hoàng đế riêng, khác biệt với người phương Bắc. Cần lưu ý thêm, các triều đại ở Việt Nam về sau này vẫn tôn vinh ngôi “đế” nhưng trong chiếu biểu, thư là với nước lớn lại vẫn xưng “vương”, thực hiện kế sách ngoại giao mềm dẻo nhắm tới mục đích “hàng phục giả về, độc lập - thật”.

Câu thơ thứ hai tiếp tục khẳng định quyền độc lập và tính chất chính nghĩa của việc phân chia lãnh thổ. Mỗi quốc gia, dân tộc lồn lại và phát triển đều có cội nguồn truyền thống và mang tính quy luật tất yếu. Cách nói “định phận tại thiên thư (định phận lại sách trôi) của người xưa thể hiện nhận thức chung về sự phân định rõ ràng, dứt khoát về bờ cõi nước Nam phải là của người Nam. Trên thực tế, không thể có một thứ “sách trời” nào nhưng cách hiểu, cách nói mang tính biểu tượng này thể hiện được chân lí về quyền được sống của mỗi dân tộc. Cùng với câu mỏ dầu, cả hai câu thơ tạo nên sự hổ ứng và đều hướng tới khẳng định bờ cõi núi sông riêng, khẳng định truyền thống văn hiến dân lộc, khẳng định chân li lần lại vĩnh hằng của cả một quốc gia, đất nước.

Tiếp đến câu thơ thứ ba nêu lên hiện tượng, sự việc “nghịch lỗ lai xâm phạm” (kẻ thù lại dám đến xâm phạm), trong đó chỉ rõ sự đối lập, đối nghịch của loại người bị coi là “kẻ thù”, xác định rõ dã tâm và mục đích của hành vi xâm lấn, xâm lược, xâm phạm,... Điều này như được nhấn mạnh bởi câu thơ mở đầu bằng ngủ khi phản vấn, đặt câu hỏi “Như hà” (Có sao?...), chỉ rõ sự phi lí, phi nghĩa của ngoại bang, đồng thời gian tiếp khẳng định thể đứng và tinh chất chính nghĩa của vua tôi nước Nam trong cuộc chiến đấu chống kẻ xâm lược. Cầu thơ cũng có ý nghĩa khơi gợi tinh thần yêu nước, chỉ cho người nghe, người đọc hiểu được hành động ngang ngược của quân giặc và liên hệ đến ý thức trách nhiệm của mỗi người trước hiện tình đất nước.

Câu kết của bài thơ vang lên như một lời cảnh báo, lời hiệu triệu, lời tiên tri khẳng định quân là nhất định thắng quân giặc nhất định thua. Cách ứng đối, cách gọi quân giặc là “nhữ đẳng" (bọn chúng bay, chúng mày,...) bộc lộ thái độ khinh khi, căm thủ không đội trời chung, phân biệt rạch rồi giữa hai chiến luyến là và kẻ xâm lược. Một kết cuộc tất yếu sẽ đến, sẽ xảy ra. Kẻ nuôi tham vọng xâm lược sẽ phải trả giá, gieo gió phải gặt bão, phải chứng kiến và chấp nhận chuốc lấy bại vong “thủ bại hư” (nhận lấy sự thất bại lan lành)... Như vậy, nếu câu thơ thứ ba xác định chủ thể xâm lược là “nghịch lỗ” (quân giặc) thì đến câu kết, chính bọn chúng lại trở thành đối tượng của quá trình thất bại, vừa là kẻ gây xâm lược vừa là kẻ bại trận, chấp nhận bại vong hứng chịu hậu quả “bại hư" do chúng gây nên.

Bài thơ Nam quốc sơn hà thuộc hệ thống thơ Đường luật, thể thơ tứ tuyệt. Với niêm luật chặt chẽ, các câu một, hai, bốn hiệp vẫn thanh bằng với nhau ở chữ cuối (“cư”, “thư”, “hư”) đã tạo nên một âm hưởng hùng tráng, giọng thơ danh thép. Dạt trong tương quan chung, hai câu dầu thiên về tiếng nói khái quát, tiếng nói khẳng định quyền độc lập dân tộc; hai câu thơ sau thiên về phản ánh hiện lĩnh đất nước và lời cảnh báo, cảnh cáo của cả một dân tộc trước giặc ngoại xâm. Bài thơ, vì thế, xứng đáng được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc, vừa khẳng định chủ quyền về cương giới, lãnh thổ vừa thể hiện ý chỉ bảo vệ toàn vẹn nền độc lập, tự chủ và quyết tâm đánh tan mọi kẻ thù xâm lược.

(In trong Giảng văn Văn học Việt Nam Trung học cơ sở, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010, tr. 142 – 146)

Văn bản Nam quốc sơn hà – Bài thơ thần khẳng định chân lý độc lập của đất nước

Bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam, được sáng tác vào năm 1077 sau chiến thắng vang dội trước quân Tống. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn mang giá trị lịch sử to lớn, thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự cường của dân tộc ta.

Lịch sử ra đời và bối cảnh của bài thơ

Năm 1077, nhà Tống cử quân xâm lược Đại Việt. Lý Thường Kiệt, vị tướng tài ba của triều Lý, đã lãnh đạo quân dân ta đánh tan quân xâm lược Tống trên sông Như Nguyệt. Chiến thắng này đã bảo vệ vững chắc nền độc lập của đất nước. Trong bối cảnh lịch sử hào hùng đó, bài thơ Nam quốc sơn hà ra đời như một lời khẳng định chủ quyền, một tuyên ngôn độc lập hùng mạnh.

Nội dung và ý nghĩa của bài thơ

Bài thơ Nam quốc sơn hà gồm 8 câu thơ lục bát, được chia thành hai phần:

  • Phần 1 (4 câu đầu): Khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Đại Việt, từ xưa đến nay, đất nước ta đã là một quốc gia độc lập, có chủ quyền riêng.
  • Phần 2 (4 câu sau): Cảnh báo quân xâm lược, nếu dám xâm phạm đến lãnh thổ của ta, sẽ bị đánh bại.

Bài thơ sử dụng những hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, những từ ngữ mạnh mẽ, dứt khoát để thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc. Câu thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” đã trở thành một câu thơ nổi tiếng, khẳng định chủ quyền của nước ta từ xưa đến nay.

Giá trị nghệ thuật của bài thơ

Nam quốc sơn hà là một bài thơ có giá trị nghệ thuật cao. Bài thơ sử dụng thể thơ lục bát quen thuộc, nhưng lại được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo. Ngôn ngữ thơ trong sáng, mạch lạc, giàu hình ảnh. Bài thơ sử dụng nhiều biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa để tăng cường tính biểu cảm.

Bài học từ bài thơ Nam quốc sơn hà

Bài thơ Nam quốc sơn hà mang đến cho chúng ta nhiều bài học quý giá. Bài thơ nhắc nhở chúng ta về tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự cường của dân tộc. Bài thơ cũng là một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở chúng ta phải luôn cảnh giác trước mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù. Trong thời đại ngày nay, bài học từ bài thơ Nam quốc sơn hà vẫn còn nguyên giá trị, giúp chúng ta xây dựng và bảo vệ đất nước ngày càng giàu mạnh.

Tìm hiểu sâu hơn về tác giả Lý Thường Kiệt

Lý Thường Kiệt (1019 – 1105) là một vị tướng tài ba của triều Lý, có công lớn trong việc bảo vệ nền độc lập của đất nước. Ông không chỉ là một nhà quân sự xuất sắc mà còn là một nhà thơ, nhà văn có tài năng. Ngoài bài thơ Nam quốc sơn hà, ông còn có nhiều tác phẩm khác như Bạch Đằng giang phú, Hiến từ chương nghị

Ứng dụng của bài thơ trong đời sống hiện đại

Bài thơ Nam quốc sơn hà vẫn được sử dụng rộng rãi trong đời sống hiện đại. Bài thơ được dạy trong các trường học, được in trên sách báo, được sử dụng trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Bài thơ cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật khác. Bài thơ Nam quốc sơn hà đã trở thành một biểu tượng của tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự cường của dân tộc Việt Nam.

Tóm lại, bài thơ Nam quốc sơn hà là một tác phẩm văn học kinh điển, mang giá trị lịch sử, văn hóa to lớn. Bài thơ là một lời khẳng định chủ quyền, một tuyên ngôn độc lập hùng mạnh, thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự cường của dân tộc Việt Nam.

Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!

VỀ TUSACH.VN