Bài văn Chí khí anh hùng của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm tiêu biểu trong phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Bài văn thể hiện rõ lòng yêu nước, tinh thần quật cường và ý chí kiên định của tác giả trước hoàn cảnh đất nước bị xâm lược.
Phân tích văn bản này, chúng ta sẽ đi sâu vào nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa lịch sử của tác phẩm, đồng thời làm rõ phong cách viết độc đáo của Nguyễn Công Trứ.
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo khó ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Đến năm 1819, ông thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan.
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn”
(Đập đá ở Côn Lôn)
Đó là những vần thơ thể hiện chí làm trai của nhà yêu nước Phan Chu Trinh. Có thể thấy, viết về quan niệm chí làm trai ngạo nghễ, cứng cỏi, gánh vác cả giang san là điều quen thuộc trong thơ văn của các nhà nho. Các tác giả thời trung đại viết rất nhiều bài thơ để tỏ chí, đồng nhất cái “tôi” vào cái “ta” chung của đất nước, nhân dân. Tuy nhiên, đến với thơ văn Nguyễn Công Trứ, ta sẽ thấy chí làm trai được biểu đạt một cách riêng biệt, đặc sắc, hòa quyện giữa bản sắc cá nhân và tư tưởng truyền thống của nhà nho. Điều này được thể hiện rất rõ qua bài thơ “Chí khí anh hùng”.
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo khó ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Đến năm 1819, ông thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan. Trong suốt cuộc đời của mình, Nguyễn Công Trứ đã chứng tỏ được tài năng xuất chúng và khí chất hơn người gắn với một chữ “Ngông”. Ông vừa là nhà quân sự, kinh tế, vừa là một nhà thơ, nhà văn hóa. Hậu thế kính nể và ghi nhớ tên tuổi ông còn bởi tấm lòng yêu nước, thương dân, ghét đời ô trọc. Năm 80 tuổi, nghe tin Pháp xâm lược nước ta, ông vẫn xin vua tòng quân đi đánh giặc nhưng thấy ông tuổi già sức yếu nên vua không phê chuẩn. Bài thơ “Chí khí anh hùng” là một bài thơ ngôn chí điển hình của ông, cho thấy lí tưởng sống cao đẹp, hoài bão mạnh mẽ của chàng trai trẻ.
“Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”
Mở đầu bài thơ là không gian rộng lớn của vũ trụ với “Vòng trời đất”, bốn phương “nam bắc đông tây”. Bốn bể bao la ấy chính là không gian thích hợp để đấng nam nhi vùng vẫy tung hoành, nâng tầm vị thế con người và cũng là khát vọng cho con người chinh phục. Cụm từ “dọc ngang ngang dọc” gợi liên tưởng đến một con đường thênh thang, trải dài tít tắp. Đây chính là con đường quan lộ trong suy nghĩ của người thanh niên tràn đầy nhiệt huyết. Câu thơ đã thể hiện sự tự ý thức về tài năng, phẩm giá, cốt cách một cách rất rõ ràng của Nguyễn Công Trứ. Cái “Nợ tang bồng” được nhắc đến trong câu thơ thứ hai gắn liền với quan niệm “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Người xưa quan niệm bậc quân tử phải là người biết tu dưỡng bản thân, trở thành trụ cột cho gia đình, lập nên công danh sự nghiệp lừng lẫy, cống hiến tài năng của mình cho đất nước. Đó là món nợ mà người nam nhi gánh vác trên vai nên phải “vay trả, trả vay”. Không có công danh, sự nghiệp là một điều đáng thẹn. Đặt vào bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, đây là quan niệm nhân sinh mang lại những tác động tích cực, khuyến khích những nhà nho đứng ra giúp đời, giúp người. Đối với những trang nam tử hán, đây là điều nghiễm nhiên phải làm. Nguyễn Công Trứ cũng từng thể hiện ý chí này trong bài “Nợ tang bồng”:
“Vũ trụ giai ngô phận sự
Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn
Chí tang bồng hẹn với giang san
Đường trung hiếu, chữ “quân thân” là gánh vác”
Bốn câu thơ sau cho thấy tâm thế chủ động, đường hoàng, khảng khái của nhà thơ:
“Nhân sinh thế thượng thuỳ vô nghệ
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh
Đã chắc ai rằng nhục rằng vinh
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ”
Khát khao được ghi tên sử sách của Nguyễn Công Trứ được thể hiện cụ thể việc “thùy vô nghệ”, tức là mong muốn được nổi tiếng nhờ tài năng và gây dựng sự nghiệp lừng lẫy. Tấm lòng son với dân, với nước sẽ vì thế mà được chứng minh, lưu lại muôn đời. Về sau, điều này đã được chứng minh bằng việc ghi tên bảng vàng của nhà thơ. Nguyễn Công Trứ cũng nhận thức rất rõ về ranh giới giữa “vinh” và “nhục”. Soi chiếu vào kho tàng văn học trung đại Việt Nam, ta có thể thấy rất nhiều nhà thơ cũng đề cập đến hai cách sống đối lập này. Tuy nhiên, quan niệm “vinh” - “nhục” của một con người chưa thành danh, đang khát khao chứng tỏ bản thân như Nguyễn Công Trứ sẽ khác với những nhà nho lánh đời, muốn thoát khỏi vòng danh lợi. “thời vị ngộ” có nghĩa là chưa gặp dịp thi thố nhưng ông không dè chừng mà trái lại, hoàn toàn tự tin và ngùn ngụt khí thế.
“Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ
Quyết ra tay lèo lái trận cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ”
“mây tuôn sóng vỗ”, “trận cuồng phong” chỉ những lúc thời thế đảo điên, đất nước gặp khó khăn. Đứng trước tình cảnh ấy, người anh hùng sẽ “Quyết ra tay lèo lái”, đưa xã hội vào trật tự. Chí khí của ông không chỉ gói gọn trong cái lồng khoa cử mà còn thể hiện ở những hành động thực tế với đất nước, nhân dân. “xẻ núi lấp sông” thể hiện sức mạnh phi thường, có thể khuấy đảo cả giang san. Nguyễn Công Trứ muốn chứng minh “Danh xứng với thực”, để cả thiên hạ tỏ tường tài năng và khí tiết của ông.
Chất “Ngông” là một đặc trưng trong những bài thơ của Nguyễn Công Trứ. Công danh là món nợ, thậm chí với nhiều người, đó còn là gánh nặng không thể trả hết. Nguyễn Công Trứ vẫn là kẻ “mang nợ” nhưng ông có tâm thế ngạo nghễ, ung dung:
“Đường mây rộng thênh thênh cử bộ
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.”
Con đường quan lộ được ví với “Đường mây” rộng rãi thênh thang, khác hẳn con đường cát “Nhất bộ nhất hồi khước” ở thơ Cao Bá Quát. “cử bộ” là cất bước trong sự nhàn nhã, tự do. Nhà thơ tưởng tượng ra lúc trả xong nợ tang bồng, thỏa chí “bình thiên hạ”. Ba câu thơ cuối bài bộc lộ lối sống tích cực, cao quý mà an nhàn. Công danh, sự nghiệp là điều tất yếu phải có nhưng Nguyễn Công Trứ không bị khuất phục bởi sức mạnh quyền thế. Khi đã chứng tỏ được tài năng với đời, ông sẵn sàng dứt áo ra đi để được thảnh thơi. Điều này về sau đã được chứng thực bởi bài thơ viết lúc ông từ quan “Bài ca ngất ngưởng”.
Như vậy, với lời thơ phóng khoáng, giọng điệu tự nhiên, âm hưởng hào hùng, nhịp thơ linh hoạt, bài thơ đã cho thấy nhân cách kẻ sĩ cao đẹp của Nguyễn Công Trứ. Quan điểm về thành công là điều có tính chất thời điểm nhưng những vần thơ ngôn chí vẫn chứa đựng vô vàn quan niệm nhân sinh tiến bộ, góp phần làm rạng danh người anh hùng toàn tài:
“Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.”
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858), là một trong những nhà thờ tiêu biểu của nước ta trong nửa đầu thế kỉ XIX. Ông là một nhà nho, văn võ song toàn, có tài kinh bang tế thế. Về mặt thơ văn, những bài thơ viết theo thể hát nói của ông cho ta thấy một tâm hồn khoáng đạt, một cốt cách mạnh mẽ hào hùng, rất độc đáo. Bài "Chí anh hùng" là một trong những bài hát nói xuất sắc nhất của nhà thơ viết trong thời trai trẻ. Bài thơ biểu lộ chí khí hăm hở lập công danh, để lại công danh sự nghiệp cho đời. Nhạc điệu âm vang, dồn dập của bài thơ gợi lên trong lòng chúng ta nhiều ấn tượng sâu sắc, tuyệt đẹp:
"Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc,
Nợ tang bồng vay giả giả vay ... ...
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu"
Khổ thơ đầu nói về chí làm trai. Theo quan niệm của người xưa, người con trai sinh ra ở đời, đầu đội trời, chân đạp đất là phải mang nợ tang bồng. Tang là cây dâu, bồng là cỏ bồng, nghĩa đen là cung tên. Nợ tang bồng là nợ lớn của đấng nam nhi: phải có chí lớn ở bốn phương, tung hoành giữa trời đất, ra sức giúp nước, trả ơn vua, trả nợ đời. Không thể sống ru rú trong xó nhà. Không thể quẩn quanh, mang thói nữ nhi thường tình. Phải đem tài trí đua tranh với đời.
Người có chí nam nhi, có chí anh hùng thì trường đua tranh vô cùng rộng lớn mang tầm vóc vũ trụ: "vòng trời đất", "nam, bắc, đông, tây" "trong bốn bể". Mang "nợ tang bồng" thì phải hết sức sòng phẳng, nghĩa là có "vay" thì phải có "trả".
"Ngang dọc dọc ngang" chỉ sự tung hoành đó đây; ngoài ra còn phải "vẫy vùng" đè sóng cưỡi gió, đem tài năng thi thố với thiên hạ.
Cái hay của khổ đầu bài hát nói là ở giọng điệu hào hùng. Thơ đầy nhạc, lôi cuốn, hấp dẫn. Nghệ thuật láy âm, điệp từ, luyến láy rất tài tình: "dọc ngang ngang dọc", "vay giả giả vay". Nhà thơ làm hiện lên trước mắt người đọc, người nghe hình ảnh một đấng nam nhi đang tung hoành, vùng vẫy trong "vòng trời đất":
"Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay giả giả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể."
Khổ thơ thứ hai là khổ giữa của bài hát nói, có giá trị như một tuyên ngôn, thể hiện một quan niệm sống đẹp.
"Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ,
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh.
Đã chắc ai rằng nhục rằng vinh
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ"
Con người sinh ra ở đời, ai mà chẳng có một nghề, một công việc để mưu sinh. Nhưng điều quan trọng nhất là phải biết làm nên công danh sự nghiệp để lại tấm lòng son (đan tâm) trong sử sách, để lại tiếng thơm cho muôn đời. Không nên lấy thành, bại, vinh, nhục để bàn luận anh hùng một cách vội vã, phiến diện. Cũng không nên xem thường người anh hùng khi chưa gặp thời thế. Trên đây là những lời tâm huyết của Nguyễn Công Trứ muốn nhắn gửi lại cho mai hậu.
Bài hát nói này có khổ dôi, đó là khổ thơ thứ ba. Giọng điệu thơ mang âm hưởng anh hùng ca thể hiện rõ chí anh hùng bằng những hành động, những việc làm cụ thể. Ngôn ngữ thơ trang trọng cổ kính. Hình tượng thơ mang tính chất ước lệ tượng trưng, lấy cái kì vĩ, tráng lệ để nói lên khát vọng công danh, chí nam nhi, chí anh hùng:
"Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ
Quyết ra tay buồm lái trận cuồng phong
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ"
"Mây tuôn sóng vỗ", "buồm lái trận cuồng phong" là hai hình ảnh tượng trưng nói lên cảnh ngộ đất nước gặp buổi khó khăn; loạn lạc và cách ứng xử của người anh hùng đứng trước thời cuộc, quyết đem tài năng và khí phách dẹp loạn, cứu nguy cho đời, làm sáng ngời lòng trung quân ái quốc. "Xẻ núi lấp sông" tượng trưng cho những công việc phi thường, những sự việc to lớn, làm rạng rỡ quê hương xứ sở. Nguyễn Công Trứ đã trải qua những thăng trầm dữ dội, đã nếm nhiều vinh nhục trên con đường công danh. Có điều cần khẳng định là ông đã sống và hành động đúng như ông quan niệm. Về mặt câu chữ, không phải ở sự mới mẻ, vì nhiều người đã viết, đã dùng, cái hay cái đẹp ở đây là với ngôn ngữ, hình ảnh ước lệ ấy, ông đã đặt đúng chỗ, nói đúng lúc, diễn tả một cách hùng hồn, lôi cuốn, chấn động cái chí khí kẻ sĩ của mình.
Khổ thơ cuối trong bài hát nói, theo thi pháp cổ gọi là khổ xếp, chỉ có 3 câu, câu cuối cùng gọi là câu keo, chỉ có sáu từ:
"Đường mây rộng thênh thênh cử bộ
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu."
"Đường mây" là hình ảnh ẩn dụ, lấy từ câu chữ "thanh vân chí thượng" (lên đến tận mây xanh) ý nói thi đỗ, có địa vị cao sang, lập được công danh. "Thênh thênh cử bộ'" nghĩa là bước đi thênh thênh, ung dung trên con đường công danh. Ở khổ đầu, nhà thơ đã viết: "Nợ tang bồng vay giả giả vay", ở khổ xếp lại viết: "Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo", qua đó ta thấy dưới ngòi bút của Nguyễn Công Trứ, ngôn ngữ thơ vừa hình tượng", biểu cảm vừa mang tính hệ thống chặt chẽ. "vỗ tay reo", "thành thơi' chỉ niềm vui hân hoan, toại nguyện, thảnh thơi ung dung với "thơ túi rượu bầu", sống tại cuộc đời của những tao nhân mặc khách.
Giọng thơ trở nên nhẹ nhàng, thư thái diễn tả niềm vui sướng và tự hào của kẻ sĩ sau khi đã làm tròn nghĩa vụ với đời, đã trang trải hết nợ tang bồng. Và lúc ấy, có quyền được thảnh thơi vui sướng "thơ túi rượu bầu", thưởng thức trăng thanh gió mát. có người cho đó là hưởng lạc. Chưa hẳn thế!
Bài văn Chí khí anh hùng của Nguyễn Công Trứ được viết năm 1867, trong bối cảnh nước ta đang bị thực dân Pháp xâm lược. Bài văn là lời tự bạch của tác giả về chí hướng, khí phách của mình, đồng thời thể hiện niềm tin vào tương lai của đất nước.
Nguyễn Công Trứ (1835-1907) là một nhà văn, nhà thơ yêu nước tiêu biểu của Việt Nam. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó, nhưng nhờ có tài năng và sự nỗ lực, ông đã đỗ đạt cao trong khoa thi và trở thành một quan lại trong triều Nguyễn. Tuy nhiên, ông sớm nhận ra sự thối nát của triều đình và sự bất công của xã hội, nên đã quyết định rời bỏ quan trường để theo đuổi con đường cách mạng.
Bài văn Chí khí anh hùng được viết trong thời kỳ ông đang sống ẩn dật ở quê nhà. Bài văn là lời tâm sự của ông với con trai, trong đó ông bày tỏ nỗi lòng về tình hình đất nước và khuyên con trai phải giữ vững khí tiết, không khuất phục trước kẻ thù.
Bài văn Chí khí anh hùng có thể chia thành hai phần chính:
Bài văn Chí khí anh hùng được viết theo thể văn nghị luận, nhưng mang đậm phong cách trữ tình. Tác giả sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa để diễn tả tình cảm, suy nghĩ của mình một cách sâu sắc và cảm động.
Đặc biệt, bài văn sử dụng nhiều từ Hán Việt cổ kính, trang trọng, tạo nên một phong cách văn hóa độc đáo. Cách sử dụng từ ngữ này không chỉ thể hiện sự hiểu biết sâu rộng của tác giả về Hán học, mà còn góp phần làm tăng tính trang nghiêm, uy nghiêm của bài văn.
Bài văn Chí khí anh hùng là một tác phẩm có giá trị lịch sử và hiện thực to lớn. Bài văn thể hiện tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Bài văn cũng là một lời kêu gọi hành động, khích lệ tinh thần yêu nước của các thế hệ người Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, bài văn Chí khí anh hùng vẫn còn nguyên giá trị. Bài văn nhắc nhở chúng ta phải luôn giữ vững tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và phải không ngừng học tập, rèn luyện để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
Đoạn văn: "Thân thể này vốn là của đất, khí phách này vốn là của trời."
Phân tích: Đoạn văn này thể hiện triết lý sống cao thượng của Nguyễn Công Trứ. Ông cho rằng con người sinh ra trên đời là để phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Khí phách của con người phải hướng tới những điều cao cả, tốt đẹp. Đoạn văn này cũng thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh của tinh thần, ý chí.
Chí khí anh hùng là một bài văn tiêu biểu cho lòng yêu nước và tinh thần quật cường của Nguyễn Công Trứ. Bài văn không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có giá trị hiện thực sâu sắc, góp phần khơi dậy lòng tự hào dân tộc và tinh thần yêu nước của các thế hệ người Việt Nam.
Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi, tài liệu học tập