Văn bản Tê - dê là một bài văn nghị luận độc đáo của nhà văn Nguyễn Khuyến, được viết theo thể văn tế. Tác phẩm thể hiện sự châm biếm sâu sắc, phê phán thói quan lại tham nhũng, bất tài nhưng lại ham công danh, địa vị.
Bài văn sử dụng ngôn ngữ giản dị, hài hước nhưng lại chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc về xã hội và con người.
Người anh hùng vĩ đại của người A-ten (Athens) là Tê-dê. Chàng đã có nhiều cuộc phiêu lưu và tham dự trong nhiều sự kiện quan trọng đến nỗi ở A-len người ta có câu “Không có việc gì mà không có Tê-dê”.
Tê-dê
(Trích Thần thoại Hy Lạp)
Ê-đi Ha-min-tơn (Edith Hamilton) kể
Người anh hùng vĩ đại của người A-ten (Athens) là Tê-dê. Chàng đã có nhiều cuộc phiêu lưu và tham dự trong nhiều sự kiện quan trọng đến nỗi ở A-len người ta có câu “Không có việc gì mà không có Tê-dê”.
Chàng là con của vua E-giê (Aegeus) tại A-ten. Tuy nhiên thuở nhỏ chàng sống nơi quê mẹ, trong một thành phố phía nam Hy Lạp, Ê-giê quay trở về Hy Lạp lúc Tê-dê chưa sinh ra, nhưng trước khi đi ông có đặt một thanh kiếm và một đôi giày vào trong một cái hố và lấp lại bằng một tảng đá lớn. Ông làm việc này với sự chứng kiến của vợ và dặn rằng khi nào đứa con trai – nếu nàng sinh ra con trai – của họ lớn lên đủ mạnh để lăn hòn đá này đi và lấy những thứ cất ở bên dưới thì hãy cho nó đến A-ten nhận cha. Đứa bé sinh ra là con trai và khoẻ mạnh hơn các trẻ khác rất nhiều, thế nên khi mẹ cậu cuối cùng dẫn cậu đến nơi hòn đá thì cậu nhấc nó lên một cách dễ dàng. Bà bèn bảo cậu rằng đã đến lúc cậu đi tìm cha và đã có một chiếc thuyền được ông ngoại cậu dành sẵn cho cậu. Nhưng Tê-dê không muốn đi bằng đường thuỷ vì chuyến đi như thế quá an toàn và nhàn nhà. Ý nghĩ của chàng là sớm trở thành một đại anh hùng và an toàn dễ dãi không phải là cách để đạt tới điều đó. Chàng luôn luôn mơ tưởng được như Hê – ra- cờ-lét (Heracles) - vị anh hùng sáng chói nhất trong các anh hùng của người Hy Lạp, và chàng quyết hành động sao cho sáng chói như thế. Điều này hoàn toàn tự nhiên bởi vì hai người là anh em họ
Do đó chàng khăng khăng từ chối chiếc thuyền mà mẹ và ông ngoại chàng đã thuyết phục chàng sử dụng, chàng bảo rằng đi bằng thuyền như thế là sự lẩn trốn gian nguy một cách hèn hạ và chàng quyết tâm đi đến Aten bằng đường bộ. Đây là một chuyển đi dài và rất nguy hiểm vì bạn cướp đẩy xây trên đường. Tuy nhiên, chàng đã tiêu diệt sạch bọn chúng, chẳng để sót lại một tên nào có thể quấy nhiều các khách bộ hành tương lai. […]
Ta thể tưởng tượng là cả nước Hy Lạp đã rộn lên bao lời ca ngợi chàng thanh niên đã quét sạch khỏi đất nước này những đầu mối đau khổ cho khách bộ hành. Khi đó đến A-ten chàng đã là một vị anh hùng được tri ân, được nhà vui mời dự đại tiệc và dĩ nhiên ông không biết Tê-dê la con mình. Thực ra ông còn e ngại sự được lòng dân chúng rộng rãi của chàng trai này, cho rằng hắn có thể được dân chúng tôn lên làm vua, nên ông cho mời chàng là tôi với ý định đầu độc chàng. Âm mưu này không phải của ông mà là của Mê-đê (Medea), nhân vật nổi tiếng trong cuộc săn tìm bộ lông cừu bằng vàng, nàng ta đã biết được Tê-dê là ai, nhờ ở pháp thuật của mình, và đã gây được ảnh hưởng lớn với Ê-giê, Nàng không muốn vị thế của mình bị suy giảm vì sự xuất hiện của gã con trai này. Nhưng trong lúc nàng là đưa chén thuốc độc mời Tê-dê thì Tê-dê vì muốn được cha mình tức khắc nhận ra trình nên rút thanh kiếm ra. Nhà vua nhận ngay ra thanh kiến ấy và hất chén thuốc độc xuống đất. Mê-dê tẩu thoát như nàng vẫn luôn làm thế.
Vua Ê-giê sau đó tuyên cáo khắp nước rằng Tê-dê là con trai và là người kế vị mình. Nhân vật thừa kế ngai vàng sau này ngay sau đó đã có cơ hội để tự mình làm cho người dân A- ten mến mộ.
Nhiều năm trước khi chàng đến A-ten, thành phố này đã trải qua một tài hoạ khủng khiếp. Mi-nô- xơ (Minos), vị vua đầy quyền lực của xa Cơ-rét (Crete) đã bị mất đứa con trai duy nhất của mình là Ăng-đrô-giê (Androges) trong khi cậu ta đến thăm vua xứ A - ten. Ê-giê đã làm một điều mà không một người chủ nhà nào dám làm; ông bắt vị khách của mình thực hiện một cuộc viễn chinh hiểm nghèo đi giết một con bò mộng nguy hiểm. Nhưng rồi con bò mộng đã giết chết chàng trai. Vua Mi-nô-xơ đem quân đánh chiếm A-ten và tuyên bố sẽ làm cỏ đất nước này nếu mỗi chín năm người dân ở đây không cống nạp cho ông một đoàn bảy thiếu nữ và bảy thanh niên. Một số phận khủng khiếp cho đợi những con người này. Khi đến Cơ- rét họ sẽ bị đem cho quái vật Mi – nô- tơ (Minotaur) ăn thịt.
Mi-nô-tơ là một con quái vật một nửa hình bò mộng, một nửa hình người, con của Pa- đi- pha -ê (Pasiphae – vợ của Mi- nô - xơ) và một con bò mộng trắng tuyệt đẹp. Thần Pô-de-i-đông (Poseidon) đã tặng cho Mi-nô-xơ con bò mộng này để ông ta hiến tế cho thần nhưng Mi-nô- xơ không nỡ giết chết con bò và giữ lại cho mình. Để trừng trị Mi- nô-xơ, thần Pô-de-i-đông đã khiến cho Pa-đi-pha- ê say mê con bò này đến phát điên.
Khi Mi- nô - tơ được sinh ra, Mi-nô-xơ đã không giết nó. Ông truyền cho Đê-đan (Daedalus), một kiến trúc sư và nhà sáng chế đại tài, xây một chỗ để giam nhốt nó sao cho nó không thể thoát ra được. Đê-đan đã xây dựng nên Mê cung nổi tiếng khắp thế giới. Một khi đi vào trong ấy, người ta sẽ đi theo mãi những con đường ngoằn ngoèo của nó mà chẳng bao giờ tìm được lối ra. Những chàng trai cô gái thành A-ten sẽ lần lượt được đưa vào đây cho Mi-nô-xơ không có đường nào để trốn thoát cả. Dù chạy hướng nào họ cũng sẽ đâm sầm vào con quái vật, còn nếu đứng yên thì nó sẽ từ trong Mê cung lao ra bất cứ lúc nào. Đấy là số phận đang chờ đợi mười bốn nam nữ thanh niên chỉ vài ngày sau khi Tê-dê đến A-ten. Đã sắp đến ngày giao nộp cống vật.
Tê-dê tức thời buớc tới tự nguyện làm một trong các nạn nhân. Tất cả mọi người đều mến yêu lòng tốt của chàng và khâm phục sự cao thượng của chàng – nhưng không ai có ý nghĩ rằng chàng tính chuyện đi giết con quái vật. Tuy nhiên, chàng đã nói với cha mình và hứa rằng nếu thành công thì lúc trở về chàng sẽ cho kéo chiếc buồm màu trắng lên thay cho chiếc buồm màu đen của chiếc thuyền chở cống vật, để cho vua Ê-giê biết tin sớm trước khi thuyền đến đầu tiên là con mình được bình an
Khi các nạn nhân trẻ tuổi được đua đề Cơ - rét, họ phải diễu qua trước dân chúng trên đường đi tới Mê cung, A – ri- an(Ariadne), con gái vua Mi-nô xơ, cũng ở trong số người đứng xem và khi mới nhìn thấy Tê-dê nàng đã đem lòng yêu chàng. Nàng cho mời Đê-đan và bảo ông phải chỉ cho nàng cách để thoát ra khỏi Mê cung, rồi nàng cho tìm gặp Tê-dê để bảo với chàng rằng nàng sẽ giúp chàng thoát ra nếu chàng hứa đưa nàng về A-ten và cưới nàng làm vợ. Như ta có thể đoán được, chàng đã sẵn sàng chấp nhận điều này và nàng đã chỉ cách mà Đê - đan đã nói với nàng, đó là một cuộn chỉ mà chồng sẽ buộc một đầu vào bên trong cánh cửa và sẽ trải dần ra trong lúc bước đi. Chàng đã làm thế và chắc chắn nành sẽ tìm được đường ra khi cần chàng bèn mạnh dạn đi vào Mê cung để tìm con Mi-nô-tơ. Chàng thấy nó đang ngủ và lao vào ghìm chặt nó xuống đất rồi dùng nằm tay - chàng chẳng có vũ khí nào khác - đấm con quái vật cho đến chết […]
Khi Tê-dê rời khỏi cuộc chiếu khủng khiếp thì cuộn chỉ vẫn còn ở đấy. Có cuộn chỉ trong tay, con đường đã ra thật là dễ dàng. Những người kia đi theo chàng rồi họ đón A-ri-an cùng lên thuyền vượt biển hướng về A-ten.
Trên đường về họ ghé vào đảo Na – xô - xơ (Naxos) và những gì xảy ra ở đây đã được kể lại khác nhau. Một truyện thì nói rằng Tê-dê đã bỏ rơi A-ri-an. Nàng ta ngủ quên và Tê-dê đã cho thuyền ra đi mà không có nàng, nhưng rồi thần Đi-ô-ni-dô- xơ (Dionysus – thân Rượu) đã tìm thấy và an ủi nàng. Một truyện khác thì nói nhẹ tội hơn cho Tê-dê. Nàng bị say sóng dữ dội, phải đưa vào bờ cho tỉnh lại, trong lúc Tê-dê quay trở về truyền làm vài việc cần, một luồng gió mạnh đẩy chiếc thuyền ra biển và giữ ở ngoài đó một thời gian lâu. Khi quay trở lại thì A-ri-an đã chết và chàng vô cùng đau khổ.
Cả hai truyện trên đều giống nhau ở chỗ là khi về gần đến A-ten chàng đã quên căng cánh buồm màu trắng. Do quá vui mừng vì sự thành công của chuyến đi khiến họ không còn nhớ gì trong đầu hoặc do chàng quá buồn phiền vì chuyện A-ri-an. Từ nhiều ngày qua, vua Ê-giê đã từ trên đỉnh E-rô-pô-lít (Aeropolis) mỏi mắt trông chừng ra biển và rồi ông nhìn thấy cánh buồm màu đen, ông nghĩ đây là dấu hiệu con mình đã chết, nên ông đã gieo mình từ mỏm đá cao xuống biển. Vùng biển nơi ông đã chết từ đó gọi là biển Ê-giê.
Tê-dê trở thành vua xứ A-ten, vị vua sáng suốt nhất và liêm khiết nhất. Chàng tuyên bố với dân chúng rằng chàng không muốn cai trị họ, chàng muốn lập một chính quyền nhân dân trong đó mọi người đều bình đẳng. Chàng từ bỏ vương quyền và tổ chức một khối cộng đồng, lập một hội trường lớn dễ các công dân hội hợp và biểu quyết. Chức vụ duy nhất mà chàng còn giữ lại cho mình là chức Tổng chỉ huy quân đội. Nhờ đó A-ten trở thành một thành phố hạnh phúc và thịnh vượng nhất trên Trái Đất, mái nhà duy nhất của nền tự do chân chính, một nơi trên Trái Đất mà người dân tự quản lí mình. Vì lí do này mà trong trận đại chiến của Bảy vị anh hùng chống xứ Te-bơ (Thebes) khi những người Te-bơ chiến thắng không chịu chôn xác quân địch đã chết thì những người bại trận đã quay sang nhờ Tê-dê và dân A-ten giúp đỡ, vì tin rằng những con người tự do dưới một nhà lãnh đạo như thế sẽ không bao giờ để cho người chết sa cơ phải chịu xử tệ. Họ đã nghĩ không sai. Tê-dê liền dẫn quân đi đánh xử Te-bơ, chiến thắng quân Te-bơ và buộc họ phải để cho người chết được chôn cất. Nhưng khi đã là người chiến thắng chàng không bắt người dân Te-bơ phải chịu các thứ tội mà họ đã gây ra. Chàng tỏ ra vô cùng hào hiệp. Chàng không cho quân sĩ của mình vào thành phố để cướp bóc. Chàng đến đây không phải để xâm hại Te-bơ mà là để chôn cất những người đã chết, và sau khi làm xong nhiệm vụ này chàng dẫn quân trở về A-ten.
(Theo Ê-di Ha-min-tơn, Huyền thoại phương Tây, Chương Ngọc dịch, NXB Mỹ thuật, Hà Nội, 2004)
Văn bản Tê - dê, một tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Khuyến, được sáng tác trong bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thời kỳ nhà Nguyễn suy yếu, chế độ phong kiến đang đi đến tàn lụi. Sự thối nát của bộ máy quan lại, nạn tham nhũng tràn lan, và sự bất công xã hội là những vấn đề nhức nhối thời bấy giờ. Nguyễn Khuyến, với tư cách một nhà nho yêu nước, đã lên án mạnh mẽ những điều này thông qua tác phẩm của mình.
Bài văn Tê - dê là một bài văn tế, nhưng không phải để tế thần linh hay người đã khuất, mà là để tế cho con dê. Đây là một sự châm biếm độc đáo, thể hiện thái độ mỉa mai, khinh bỉ của tác giả đối với những kẻ quan lại bất tài, chỉ biết đục khoét của dân. Nguyễn Khuyến đã sử dụng hình tượng con dê để đại diện cho những kẻ quan lại tham lam, vô dụng, chỉ biết ăn uống, hưởng thụ mà không làm việc gì có ích cho dân.
Văn bản Tê - dê đạt được thành công lớn nhờ vào những giá trị nghệ thuật độc đáo:
Văn bản Tê - dê không chỉ là một tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật cao mà còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Tác phẩm đã lên án mạnh mẽ những thói xấu của quan lại phong kiến, đồng thời thể hiện lòng yêu nước, thương dân của Nguyễn Khuyến. Đến ngày nay, tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị, giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về những vấn đề xã hội và con người.
Văn bản Tê - dê là một trong những tác phẩm quan trọng được giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 9. Học sinh cần nắm vững nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của tác phẩm để hiểu rõ hơn về văn học Việt Nam và xã hội Việt Nam thời phong kiến.
Văn bản Tê - dê là một tác phẩm độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân của Nguyễn Khuyến. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam và vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay. Hy vọng bài viết này đã cung cấp cho bạn những thông tin hữu ích về tác phẩm này.
Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi, tài liệu học tập