Văn bản Lăng Quả Thông là một trong những truyện ngắn tiêu biểu nhất của nhà văn Lỗ Tấn, được viết năm 1926. Tác phẩm phản ánh sâu sắc những mâu thuẫn trong xã hội Trung Quốc đương thời, đặc biệt là sự suy đồi của giai cấp thống trị và nỗi thống khổ của người dân lao động.
Truyện ngắn này nổi tiếng với lối viết hiện thực, giàu tính biểu tượng và khả năng lột tả tâm lý nhân vật một cách tinh tế. Đọc Lăng Quả Thông, người đọc sẽ cảm nhận được sự chua xót, bi kịch và những khát vọng về một xã hội công bằng hơn.
Bấy giờ tiết trời tháng sáu ấm áp. Đang thời kì đêm trắng. Người ta tổ chức hòa nhạc ngoài trời ở công viên thành phố.
LẴNG QUẢ THÔNG
Bấy giờ tiết trời tháng sáu ấm áp. Đang thời kì đêm trắng. Người ta tổ chức hòa nhạc ngoài trời ở công viên thành phố.
Đa-ni đến nghe hòa nhạc cùng với cô Mac-đa và chú Nin-xơ (Nils). Đa-ni muốn mặc chiếc áo dài trắng duy nhất. Nhưng ông Nin-xơ bảo rằng con gái đẹp phải mặc cách nào cho nổi bật giữa khung cảnh xung quanh. Ông nói rất dài về chuyện này, nhưng nhìn chung thì chỉ dẫn đến kết luận rằng, đêm đã trắng thì phải mặc áo đen, và nếu đêm tối đen thì lại phải mặc áo trắng lấp lánh.
Không thể cãi lại chú được, Đa-ni bèn mặc chiếc áo dài bằng nhung tơ, màu đen. Áo này là do bà Mac-đa mượn ở kho trang phục của nhà hát.
Khi cháu mặc xong chiếc áo ấy, bà Mac-đa công nhận rằng có lẽ chồng mình nói đúng. Vì không có thứ vải nào làm nổi bật khuôn mặt trắng xanh nghiêm nghị và hai bím tóc dài lấp lánh màu vàng của Đa-ni như thứ hàng nhung thần bí này.
Ông Nin-xơ nói nhỏ với vợ:
- Em nhìn kia. Cháu Đa-ni xinh không, như là sắp đi đến cuộc hẹn hò đầu tiên ấy.
Bà Mac-đa trả lời:
- Đúng thế. Nhưng hình như khi anh đến cuộc hẹn hò đầu tiên với em, em thấy anh chẳng ra dáng chàng trai đang yêu sôi nổi chút nào thì phải. Anh thật là một kẻ ba hoa.
Và bà hôn vào đầu chồng.
Buổi hoà nhạc bắt đầu sau tiếng súng đại bác thường lệ ở ngoài cảng. Tiếng đại bác ấy báo hiệu mặt trời lặn.
Tuy là buổi tối nhưng cả chỉ huy, cả các nhạc công không ai thắp đèn ở giá nhạc.
Trời sáng đến nỗi người ta thắp những ngọn đèn lấp ló trong các cành lá bồ đề rõ ràng chỉ cốt là để trang trí cho buổi hoà nhạc mà thôi.
Lần đầu tiên Đa-ni nghe nhạc giao hưởng. Nó tác động đến cô một cách kì lạ. Tất cả những giai điệu uyển chuyển và những tiếng sấm sét của dàn nhạc đều gợi lên trong Đa-ni những hình ảnh, giống như những giấc mộng.
Chợt cô giật mình và ngước mắt lên. Cô như nghe thấy người đàn ông gầy gò, mặc áo đuôi tôm, giới thiệu chương trình hoà nhạc vừa nhắc đến tên cô.
– Chú vừa gọi cháu, phải không ạ? – Đa-ni hỏi ông Nin-xơ. Cô ngước nhìn ông và lập tức cau mày ngay lại.
Ông Nin-xơ nhìn cháu không ra vẻ lo sợ cũng không ra thán phục. Và bà Mac-đa cũng nhìn cô như vậy, rồi đưa khăn tay lên che miệng.
Đa-ni hỏi:
- Sao thế ạ?
Bà Mac-đa nắm lấy tay cháu, thì thầm:
- Cháu nghe đây!
Khi đó Đa-ni nghe thấy người mặc áo đuôi tôm nói:
- Quý vị thính giả các hàng ghế cuối yêu cầu tôi nhắc lại. Vậy xin mời quý vị nghe bản nhạc nổi tiếng của E-đơ-va Gờ-ríc viết tặng cô Đa-ni Pơ-đơ-xơn, con gái ông gác rừng Kha-gớp Pơ-đơ-xơn (Khageuv Pedersen) nhân dịp cô tròn mười tám tuổi.
Đa-ni thở một hơi rất dài đến nỗi ngực hơi đau. Cô muốn dùng cái thở dài ấy để ngăn nước mắt đang nghẹn cổ họng, nhưng không được. Cô cúi xuống và áp mặt vào hai bàn tay.
Mới đầu cô không nghe thấy gì cả. Trong lòng cô đang ào ạt cơn bão. Rồi cuối cùng, cô bắt đầu nghe thấy tiếng tù và mục đồng trầm bổng buổi sáng sớm và có hàng trăm thanh âm của dàn nhạc như giật mình đáp lại.
Giai điệu lớn dần, cao dần, rồi ào ào như gió thổi qua những ngọn cây, bứt các lá vàng, lay các ngọn cỏ, phả vào mặt những làn gió mát rượi. Đa-ni cảm thấy luồng không khí như từ âm nhạc bay vụt lên, và cô cố trấn tĩnh lại.
Ôi! Đây chính là khu rừng của cô, là quê hương cô! Những ngọn núi của cô, những tiếng tù và, tiếng sóng biển ào ạt.
Những con tàu thuỷ tinh rẽ sóng làm sủi bọt. Gió thổi và những dây dợ. Âm thanh ấy bỗng chuyển lúc nào không biết thành bao tiếng chuông rừng chen chúc, thành tiếng chim hót trong không trung, thành tiếng trẻ con hú gọi nhau, thành bài hát ca ngợi cô gái mà chàng trai vừa ném vào cửa sổ của cô một nắm cát lúc rạng đông. Đa-ni đã được nghe bài hát này hồi còn ở nhà, nơi rừng núi.
Thế nghĩa là đúng bác ấy rồi: đúng người khách tóc hoa râm hôm ấy đã xách hộ cô chiếc lẵng đầy quả thông về tận nhà. Đó chính là E-đơ-va Gờ-ríc, nhà phù thuỷ và nhạc sĩ vĩ đại! Và cô đã trách ông là không biết làm tặng phẩm nhanh.
Thì ra đấy chính là món quà mà ông đã hứa tặng cô mười năm sau!
Đa-ni khóc, không cần giấu ai nữa, những giọt nước mắt biết ơn. Đến lúc đó, âm nhạc đã lan ra, choán hết không trung giữa mặt đất và những đám mây lơ lửng trên thành phố. Những làn sóng âm thanh làm các đám mây khẽ rung động. Và đằng sau đám mây, những vì sao đang lấp lánh.
Bản nhạc không chỉ còn ca hát nữa. Nó bắt đầu vẫy gọi. Nó kêu gọi cô đi theo nó đến xứ sở, nơi không có một nỗi buồn nào làm nguội được tình yêu, nơi không có ai đi cướp giật hạnh phúc của nhau, nơi mặt trời rực rỡ như chiếc mũ miện trên làn tóc của một bà tiên nhân từ trong truyện cổ tích.
Giữa âm thanh ào ạt đó bỗng hiện lên một giọng nói quen thuộc “Cháu là hạnh phúc - tiếng ông khách nói - cháu là bình minh”.
Đa-ni đứng dậy, bước nhanh ra cổng công viên. Mọi người đều liếc nhìn cô. Có lẽ một số thính giả đoán ra cô gái kia chính là Đa-ni Pơ-đơ-xơn, người được E-đơ-va Gờ-ríc tặng món quà bất hủ đó.
“Bác ấy mất rồi! – Đa-ni nghĩ — Tại sao nhi?” Nếu như có thể gặp lại được bác ấy. Nếu như bác ấy hiện ra ở đây! Cô sẽ ôm trái tim đập rộn rã, chạy như bay tới, sẽ ôm chặt lấy cổ ông, sẽ áp chiếc má đẫm nước mắt vào má ông và sẽ nói hai chữ thôi: “Cảm ơn!” Chắc ông sẽ hỏi: “Vì chuyện gì?” và Đa-ni sẽ trả lời “Cháu không biết... Vì bác đã không quên cháu. Vì bác thật là hào hiệp. Vì bác đã mở ra trước mắt cháu cái tuyệt mĩ, mà con người ta phải lấy cái đó mà sống”.
Đa-ni đi trên đường phố vắng tanh, không nhận ra bà Mac-đa đã bảo chồng kín đáo đi theo xem cháu có làm sao không. Ông Nin-xơ bước lảo đảo như người say rượu, miệng lẩm bẩm về điều kì diệu vừa xảy ra trong cuộc sống bé nhỏ của họ.
Bóng đêm vẫn còn bao phủ thành phố. Nhưng ánh sáng nhợt nhạt của bình minh phương bắc đã hiện lên trên các ô cửa kính.
Đa-ni bước ra bờ biển. Biển đang ngủ say, không có một gợn sóng nào hết.
Đa-ni nắm chặt hai bàn tay lại và rên rỉ trước cảm giác cô còn chưa thấy rõ nhưng đã xâm chiếm cả cơ thể cô rồi.
“Hỡi cuộc sống, – Đa-ni thì thầm, – ta yêu người”.
Rồi cô cười phá lên, mở to mắt nhìn những ánh đèn trên tàu. Những ánh đèn đó lắc lư giữa mặt nước màu xám trong suốt.
Ông Nin-xơ đứng hơi xa, nghe thấy tiếng cười của đứa cháu bèn trở về nhà. Bây giờ ông đã yên tâm về Đa-ni. Bây giờ ông biết rằng cuộc đời cháu ông sẽ không trôi qua một cách uống phí.
Văn bản Lăng Quả Thông, một tác phẩm kinh điển của nhà văn Lỗ Tấn, được sáng tác vào năm 1926, là một bức tranh chân thực và đầy ám ảnh về xã hội Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX. Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện đơn thuần mà còn là một lời tố cáo mạnh mẽ về sự suy đồi đạo đức, sự bất công xã hội và sự thờ ơ của giai cấp thống trị đối với nỗi khổ của người dân.
Truyện ngắn xoay quanh nhân vật Lão Hứa, một người đàn ông nghèo khổ, sống bằng nghề bốc vác và bị xã hội bỏ rơi. Trong một đêm đông giá rét, Lão Hứa qua đời tại một quán trọ tồi tàn. Sự ra đi của ông không gây ra bất kỳ sự xáo trộn nào trong cuộc sống của những người xung quanh, ngoại trừ một vài lời bàn tán nhỏ nhặt.
Hình ảnh "Lăng Quả Thông" trong tiêu đề truyện có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. "Lăng" tượng trưng cho sự cô đơn, lạnh lẽo và sự bỏ rơi. "Quả Thông" tượng trưng cho sự kiên cường, bất khuất và khả năng sống sót trong điều kiện khắc nghiệt. Sự kết hợp giữa hai hình ảnh này thể hiện sự mâu thuẫn và bi kịch trong cuộc đời của Lão Hứa.
Lỗ Tấn là một bậc thầy về nghệ thuật viết truyện ngắn. Trong Văn bản Lăng Quả Thông, ông sử dụng lối viết hiện thực, giàu tính biểu tượng và khả năng lột tả tâm lý nhân vật một cách tinh tế. Ông cũng sử dụng nhiều biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh, đối lập để tăng cường hiệu quả biểu đạt.
Văn bản Lăng Quả Thông không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn là một tài liệu lịch sử quý giá, phản ánh chân thực những mâu thuẫn trong xã hội Trung Quốc đương thời. Tác phẩm đã góp phần thức tỉnh lương tâm của người dân và thúc đẩy phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Văn bản Lăng Quả Thông thường xuyên xuất hiện trong chương trình Ngữ văn bậc THPT tại Việt Nam. Việc học và phân tích tác phẩm này giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về văn học Trung Quốc, về xã hội và con người, đồng thời rèn luyện kỹ năng đọc hiểu và phân tích văn học.
Văn bản Lăng Quả Thông kể về cái chết cô đơn của Lão Hứa, một người đàn ông nghèo khổ, trong một quán trọ tồi tàn. Sự ra đi của ông không gây ra bất kỳ sự xáo trộn nào trong cuộc sống của những người xung quanh, ngoại trừ một vài lời bàn tán nhỏ nhặt. Tác phẩm phản ánh sâu sắc sự thờ ơ, vô cảm và sự bất công xã hội trong xã hội Trung Quốc đương thời.
Bạn có thể đọc đầy đủ Văn bản Lăng Quả Thông và tìm hiểu thêm về tác phẩm tại tusach.vn. Chúng tôi cung cấp bản dịch chính xác, phân tích chi tiết và các tài liệu tham khảo hữu ích khác.
Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi, tài liệu học tập