1. Trang Chủ
  2. Tài Liệu Học Tập
  3. Văn bản Bầy chim chìa vôi

Văn bản Bầy chim chìa vôi

Văn bản Bầy chim chìa vôi - Tuyệt tác của Nguyễn Khuyến

Văn bản Bầy chim chìa vôi là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện nỗi niềm u hoài, cô đơn của tác giả khi về ẩn dật ở quê nhà.

Bài thơ không chỉ nổi tiếng về nội dung sâu sắc mà còn về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ độc đáo, giàu hình ảnh và cảm xúc.

Khoảng hai giờ sáng Mon tỉnh giấc. Nó xoay mình sang phía anh nó, thì thào gọi:

Bầy chim chìa vôi

(Nguyễn Quang Thiều)

(1)

Khoảng hai giờ sáng Mon tỉnh giấc. Nó xoay mình sang phía anh nó, thì thào gọi:

- Anh Mên ơi, anh Mên!

- Gì đấy? Mày không ngủ à? – Thằng Mên hỏi lại, giọng nó ráo hoảnh như đã thức dậy từ lâu lắm rồi.

- Anh bảo mưa có to không?

- Lại chẳng to. Thế mày không nghe thấy gì à?”

- Nhưng anh bảo nước sông lên có to không?

- Bây giờ phải ngập đến cánh bãi dưới rồi.

- Thế anh bảo... 

- Bảo cái gì mà bảo lắm thế – Mên gắt em nó.

- Em bảo – Mon ngập ngừng. – Thế cái bãi cát giữa sông đã ngập chưa?

- Ừ nhỉ. – Giọng thằng Mên chợt thảng thốt. – Có lẽ sắp ngập mất bãi cát rồi.

- Em sợ những con chim chìa vôi non bị chết đuối mất.

- Tao cũng sợ.

- Thế anh bảo chúng nó có bơi được không?

- Chim thì bơi làm sao được. Mày làm chim chìa vôi cứ như vịt ấy.

Hai đứa bé nằm trong chiếc chăn dạ đã rách nhiều chỗ thì thầm nói chuyện. Bên ngoài mưa vẫn to. Trong tiếng mưa hình như có tiếng nước sông dâng cao, xiên xiết chạy

- Chiều qua em theo bố đi kéo chũm ở gần cống sông ây.

- Thế thì sao?

- Bố bảo chỉ có sông ở làng mình chim chìa vôi mới làm tổ như thế. Sao nó lại không làm tổ ở trên bờ hả anh?

- Tao không biết.

[...] Hai đứa bé nằm im, nhưng không ngủ.

Có lẽ bố chúng nó nói đúng. Chỉ ở khúc sông chúng, những con chim chìa vôi mới làm tổ như thế. Hàng năm vào mùa nước cạn, giữa sông làng nổi lên một dải cát. Sau một thời gian, những đám rong sông tốt bời bời héo dần làm thành một lớp đệm trên cát. Vào lúc đó, những con chim chìa vôi mảnh khảnh và ít lời từ hai bờ sông bay ra bãi cát. Chúng tìm những đám dày để đẻ trứng. Khi những con chim chìa vôi đã đủ lông cánh cũng là lúc có những đám mây lạ từ dãy núi đá vôi Hòa Bình bay về báo hiệu mùa mưa. Những tiếng sấm sau mỗi đêm lại chuyển dần từ một chân trời xa về bên kia sông. Và bất chợt một đêmnào gần sáng, sấm nổ vang trên nóc nhà và mưa ném xuống. Con sông Đáy cựa mình lớn lên. Chỉ sau dăm đêm, dải cát nổi giữa sông chìm vào trong nước đỏ. Khi vòng vây của nước ập vào phần cuối cùng của bãi cát thì những con chim chìa vôi non lần đầu tiên trong đời đập cánh bay lên. Những con chim bé bỏng bút khỏi dòng nước khổng lồ bay vào bờ. Và đến mùa khô sang năm chúng lại ra dải cát nổi bắt đầu mùa sinh nở của chúng. […]

(2)

Mùa mưa năm nay như về sớm hơn. Mây ngày mưa liên miên và nước sông dâng lên rất nhanh.

- Anh ơi! – Thằng Mon lại thì thào gọi.

- Gì?

- Anh đã nhìn thấy chim chìa vôi nó bay từ bãi cát vào bờ bao giờ chưa?

- Chưa

- Tổ chim sẽ bị chìm mất.

Thằng Mên nằm im lặng không trả lời em nó. Lâu sau nó hỏi:

- Thế làm thế nào bây giờ?

- Hay mình mang chúng nó vào bờ.

- Bây giờ nước to lắm, làm sao mà lội ra đấy được.

- Em không biết.

Hai đứa bé lại nằm im lặng. Mưa vẫn đổ xuống mái nhà và gió vẫn thỏi vào phên cửa liếp cành cạch.

- Chiều qua bố kéo chũm được một con cá măng.

- Thế mà cũng khoe, ai mà chẳng biết.

- Cả một con cá bống rất to và đẹp. Em lấy trộm con cá bống.

- Thế để đâu rồi? — Thằng Mên quay sang phía em nó hỏi.

- Em thả vào chỗ cống sông rồi. Anh bảo đấy có phải là con bống ở hốc đò dưới bến không?

– Mày có nhìn thấy cái chấm đen to ở vậy nó không?

- Em không nhìn. Chiều về đổ giỏ cá ra chậu, bố kêu mất con bống. Bố bảo có khi con cá măng ăn con bỗng rồi. Bỗ bảo mẹ mổ con măng ra xem có con bống trong bụng nó không.

- Hí hí. – Thằng Mên bật cười khoái chí.

- Cái hốc cắm sào đò ngập bủm rồi anh nhỉ?

- Ngập từ chiều hôm kia rồi. Ngập đến mái nhà con bỗng cũng chẳng sợ.

- Anh ơi...

- Gì?

- Tổ chim ngập mất anh ạ. Mình phải mang chúng nó vào bờ, anh ạ. 

- Đi bây giờ à? – Thằng Mên hỏi sau một phút im lặng.

– Vâng, cứ lấy đò của ông Hảo mà đi. [...]

(3)

Trôi đến đoạn sông cách bến đò làng chúng chừng gần hai cây số con đò mới tạt được vào bờ.

- Vào bờ rồi anh ơi. — Thằng Mon kêu lên sung sướng.

- Chứ còn sao. – Lúc này giọng thằng Mên tỏ vẻ rất người lớn. – Nào xuống đò được rồi đấy.

Hai anh em thằng Mên lập cập tụt khỏi đò.

- Mình để đò lại đây hả anh?

- Phải kéo về bến chứ, không thì chết. Bây giờ tao kéo còn mày đẩy. 

Thằng Mên quấn cái dây buộc đò vào người nó và gò lưng kéo. Phía sau, thằng Mon lội bì bõm đẩy.

- Cái dải cát chưa chìm đâu anh nhỉ?

- Chắc là chưa.

Khi hai đứa bé đưa được con đò trở về chỗ cũ thì trời đã tang tảng sáng. Chúng vội vã tìm cách buộc đò lại. Rồi ngay sau đó, cả hai đứa bé không nói gì và cùng chạy ngược lên đoạn bờ sông đối diện với

- Anh có nhìn thấy gì không?

- Tao chưa nhìn thấy, còn tối lắm.

- Thế anh bảo đã ngập hết chưa?

- Để tao nhìn xem. – Thằng Mên nói và ngồi thụp xuống. Nó căng mắt nhìn sát mặt sông.

- Ướt cánh, chim nó có bay được không?

- Mày lội ra đấy mà hỏi.

- Anh ơi, có khi bố dậy rồi đấy.

Sau câu nói của thằng Mon, cả hai đứa trẻ bắt đầu thấy sợ. Từ phía ngôi nhà của chúng ở chân đê vọng lại tiếng người lớn gắt gỏng điều gì đẩy. Hai đứa trẻ vẫn căng mắt nhìn ra giữa dòng sông. Trời đã sáng.

- Anh ơi, kia kìa, bãi cát. - Thằng Mon chợt kêu lên

- Ừ, đúng rồi. Vẫn chưa ngập hết. Còn bằng cái mũ thôi

- Anh bảo bầy chim còn ở đó không?

- Không biết. Nhưng bố bảo khi nước vừa ngập hết thì chim mới bay lên

- Sao chúng lại không bay trước?

- Làm sao mà tao biết được

Khi ánh bình minh đã đủ sáng để soi rõ những mưa trên mặt sông thì cũng là lúc dòng nước khổng lồnuốt chửng phần còn lại cuối cùng của dải cát. Và trong mắt hai đứa trẻ, một cảnh tượng như huyền thoại. Từ mặt nước sông, những cánh chim bé bỏng và ướt át đột ngột bứt khỏi dòng nước khổng lồ bay lên. Hai đứa bé không kêu lên được một tiếng nào. Người chúng như đang ngùn ngụt toả hơi nóng.

Suốt từ chiều hôm qua, nước bắt đầu dâng lên nhanh hơn. Nước dâng lên đến đâu, con chim bố và chim mẹ lại dẫn bầy chim non tránh nước lên theo đến đó. Cứ như thế chúng tiến dần đến phần cao nhất của dải cát. Và cứ thế bầy chim non nhảy lò cò trên những đôi chân mảnh dẻ chưa thật cứng cáp và đập cánh suốt đêm. Chim bố và chim mẹ vừa đập cánh theo đàn con vừa dẫn chúng đi. Hình như chúng biết cách chính xác khi nào thì đàn con chúng mới đủ sức để nâng mình lên khỏi mặt đất đảm bảo. Nếu bầy chim con cất cánh sớm hơn, chúng sẽ bị rơi xuống dòng nước trên đường từ bãi cát vào bờ. Và nếu chúng cất cánh chậm một giây thôi, chúng sẽ bị dòng nước cuốn chìm. 

Và bây giờ bầy chim đã bay lên. Mặt trời như lên nhanh hơn mọi ngày và mưa đã đột ngột tạnh hẳn. Bỗng một con chim như đuối sức. Đôi cánh của nó chợt như dừng lại, nó rơi xuống như một chiếc lá. Con chim mẹ xoè rộng đôi cánh lượn quanh đứa con và kêu lên. Nhưng khi đôi chân mảnh dẻ và run rẩy của con chim non chạm vào mặt sông thì đôi cánh của nó đập một nhịp quyết định. Tấm thân bé bỏng của con chim vụt bút ra khỏi dòng nước và bay lên cao hơn lần cất cánh đầu tiên ở bãi cát.

Quanh hai đứa bé tất cả vụt im lặng, chỉ có tiếng đập cánh quyết liệt của bầy chim non. Hình như chúng nghe thấy trong ngực mình nhịp đập của những trái tim hối hả nhưng đều đặn. Cuối cùng bầy chim non đã thực hiện xong chuyến bay quan trọng, đầu tiên và kì vĩ nhất trong đời chúng. Những đôi cánh mỏng manh run rẩy và đầy tự tin của bầy chim đã hạ xuống bên một lùm dứa dại bờ sông.

Hai anh em thằng Mên vẫn đứng không nhúc nhích.

Trên gương mặt tái nhợt vì nước mưa của chúng hừng lên ánh ngày. Thằng Mên lặng lẽ quay lại nhìn em nó. Và cả hai đứa bé nhận ra chúng đã khóc từ lúc nào.

- Tại sao mày lại khóc? - Thằng Mên hỏi

- Em không biết, thế anh?

Hai anh em thăng Mên nhìn nhau và cùng bật cười ngượng nghịu. Rồi bỗng cả hai đứa cùng quay người và rướn mình chạy về phía ngôi nhà của chúng. Được một đoạn, thằng Mon đứng lại thở và gọi:

- Anh Mên, anh Mên. Đợi em với. Không em ứ chơi với anh nữa.

(Nguyễn Quang Thiều, Mùa hoa cải bên sông, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2012, tr. 136 - 146)

Văn bản Bầy chim chìa vôi: Tổng quan và Phân tích Chi Tiết

Văn bản Bầy chim chìa vôi là một bài thơ thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, sáng tác năm 1895 của nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835-1909). Bài thơ nằm trong tập thơ Thực Đường tập, thể hiện nỗi buồn cô đơn, chán chường cuộc sống quan trường và khát vọng tự do của tác giả khi về ẩn dật ở quê nhà.

Nội dung chính của Văn bản Bầy chim chìa vôi

Bài thơ miêu tả cảnh tượng bầy chim chìa vôi bay về tổ trước khi trời tối, đồng thời ẩn chứa nỗi lòng của tác giả. Nguyễn Khuyến cảm thấy cô đơn, lẻ loi giữa thiên nhiên rộng lớn, không còn ai để tâm sự, chia sẻ. Hình ảnh bầy chim chìa vôi trở về tổ ấm gợi lên nỗi nhớ gia đình, bạn bè và những kỷ niệm đẹp đẽ trong quá khứ.

Phân tích chi tiết các khổ thơ

  1. Khổ thơ thứ nhất: Cảnh tượng bầy chim chìa vôi

    “Chiều chiều oai oái tiếng chim kêu,Bầy chim đáp lại tiều vài thủ.Whoa phong xao xác cành lê rung,Tiếng lục bình rơi chẳng ai thu.”

    Khổ thơ mở đầu bằng âm thanh “oai oái” của tiếng chim chìa vôi, gợi lên một không gian tĩnh lặng, buồn bã. Từ “oai oái” là một từ láy âm thanh đặc sắc, diễn tả tiếng chim kêu não nuột, da diết. Hình ảnh “tiều vài thủ” cho thấy người tiều phu đang dừng tay nghỉ ngơi, lắng nghe tiếng chim. Cảnh vật thiên nhiên được miêu tả qua những chi tiết nhỏ nhặt, tinh tế: “whoa phong xao xác cành lê rung”, “tiếng lục bình rơi chẳng ai thu”. Những hình ảnh này tạo nên một bức tranh thiên nhiên buồn hiu, gợi lên nỗi cô đơn, vắng vẻ.

  2. Khổ thơ thứ hai: Nỗi lòng của tác giả

    “Người gần gũi kẻ xa xôi,Quẩn quanh đứng giữa đất trời bao la.Đành rằng vật chất tầm thường,Nhưng để lòng ta cũng bấy nhiêu.”

    Khổ thơ thứ hai thể hiện nỗi lòng của tác giả. Nguyễn Khuyến cảm thấy cô đơn, lạc lõng giữa đất trời bao la. Ông không tìm thấy sự đồng cảm, chia sẻ từ những người xung quanh. Câu thơ “Đành rằng vật chất tầm thường” thể hiện sự chấp nhận số phận, sự buông bỏ những tham vọng đời thường. Tuy nhiên, nỗi buồn cô đơn vẫn ám ảnh tâm hồn ông.

Nghệ thuật của Văn bản Bầy chim chìa vôi

  • Sử dụng ngôn ngữ độc đáo: Nguyễn Khuyến sử dụng nhiều từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình để diễn tả cảm xúc tinh tế. Ví dụ: “oai oái”, “xao xác”.
  • Hình ảnh giàu sức gợi: Các hình ảnh trong bài thơ đều mang tính biểu tượng, gợi lên những cảm xúc sâu sắc. Ví dụ: hình ảnh bầy chim chìa vôi gợi lên nỗi nhớ gia đình, bạn bè.
  • Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt: Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt giúp bài thơ ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn truyền tải được đầy đủ ý nghĩa.

Ý nghĩa của Văn bản Bầy chim chìa vôi

Văn bản Bầy chim chìa vôi là một bài thơ hay, thể hiện tài năng sáng tác của Nguyễn Khuyến. Bài thơ không chỉ có giá trị nghệ thuật cao mà còn có giá trị nhân văn sâu sắc. Bài thơ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cuộc đời, tâm trạng của nhà thơ Nguyễn Khuyến, đồng thời gợi lên những suy ngẫm về cuộc sống, về con người.

Ứng dụng trong học tập và thi cử

Văn bản Bầy chim chìa vôi thường xuất hiện trong chương trình Ngữ văn lớp 9 và lớp 10. Để học tốt bài thơ này, các em học sinh cần nắm vững nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của bài thơ. Các em cũng cần luyện tập phân tích, bình luận thơ để có thể viết những bài văn hay, đạt điểm cao.

Chủ đềNội dung
Tác giảNguyễn Khuyến (1835-1909)
Thể loạiThơ thất ngôn tứ tuyệt
Xuất xứThực Đường tập

Hy vọng bài viết này đã cung cấp cho bạn những thông tin hữu ích về Văn bản Bầy chim chìa vôi. Hãy truy cập tusach.vn để khám phá thêm nhiều tài liệu học tập và phân tích văn học khác!

Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!

VỀ TUSACH.VN