1. Trang Chủ
  2. Tài Liệu Học Tập
  3. Văn bản Ai ơi mồng chín tháng tư

Văn bản Ai ơi mồng chín tháng tư

Văn bản Ai ơi mồng chín tháng tư: Giới thiệu chung

Văn bản Ai ơi mồng chín tháng tư là một đoạn thơ nổi tiếng của Nguyễn Du, nằm trong Truyện Kiều. Đoạn thơ này thể hiện nỗi lòng của Kiều khi phải rời xa gia đình, quê hương, bước vào cuộc đời đầy gian truân.

Với ngôn ngữ tinh tế, giàu hình ảnh, Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng đau khổ, xót xa của Kiều, đồng thời thể hiện sự cảm thông sâu sắc của nhà thơ đối với số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Từ xưa, người Kẻ Chợ đã có câu ngạn ngữ2): “Nắng ông Từa, mưa ông Gióng” có nghĩa là cứ vào ngày hội thánh Từa (tức Từ Đạo Hạnh) mồng 7 tháng 3 âm lịch thì thế nào cũng nắng to;

AI ƠI MỒNG 9 THÁNG 4

Từ xưa, người Kẻ Chợ đã có câu ngạn ngữ: “Nắng ông Từa, mưa ông Gióng” có nghĩa là cứ vào ngày hội thánh Từa (tức Từ Đạo Hạnh) mồng 7 tháng 3 âm lịch thì thế nào cũng nắng to; còn vào hội Gióng, mồng 9 tháng 4 âm lịch thì có mưa, vì bắt đầu mùa mưa dông. Lễ hội Gióng hay còn gọi là hội làng Phù Đổng là một trong những lễ hội lớn nhất ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ.

[...] Lễ hội Gióng diễn ra trên một khu vực rộng lớn xung quanh những vết tích còn lại của Thánh tại quê hương. Cố Viên, tức vườn cũ, nay ở giữa đồng thôn Đổng Viên, tương truyền là vườn cà của mẹ Gióng, tại đây bà đã giẫm phải vết chân ông Đổng, tảng đá có dấu chân kì lạ cũng ở vườn này. Miếu Ban, thuộc thôn Phù Dực, tên cũ là rừng Trại Nòn, là nơi Thánh được sinh ra. Hiện tại sau toà miếu còn có một ao nhỏ, giữa ao có gò nổi, trên gò có một bể con bằng đá tượng trưng cho bồn tắm và một chiếc liềm bằng đá là dụng cụ cắt rốn người anh hùng. Đền Mẫu (còn gọi là đền Hạ), nơi thờ mẹ Gióng, xây ở ngoài đê. Đặc biệt, đền Thượng là nơi thờ phụng Thánh, vốn được xây cất từ vị trí ngôi miếu tương truyền có từ thời Hùng Vương thứ sáu, trên nền nhà cũ của mẹ Thánh. Trong đền có tượng Thánh, sáu tượng quan văn, quan võ chầu hai bên cùng hai phỗng quỳ và bốn viên hầu cận.

Từ mồng 1 tháng 3 đến mồng 5 tháng 4 âm lịch là thời gian chuẩn bị lễ hội. Hội bắt đầu từ ngày mồng 6. Trong những ngày này, dân làng tổ lễ rước cờ tới đền Mẫu, rước cơm chay (cơm cà) lên đền Thượng. Mồng 8 có lễ rước nước từ đền Hạ về đền Thượng, tượng trưng cho việc tôi luyện vũ khí trước khi đánh giặc. Mồng 9 vào chính hội có múa hát thờ, có hội trận và lễ khao quân. Hát thờ diễn ra trước thuỷ đình ở đền Thượng, chủ yếu là hát dân ca. Hội trận mô phỏng lại cảnh Thánh Gióng đánh giặc tại một cánh đồng rộng lớn. 28 cô tướng từ 9 đến 12 tuổi mặc tướng phục đẹp, tượng trưng cho 28 đạo quân thù. 80 phù giá lưng đeo túi dết, chân quấn xà cạp là quân ta. Đi đầu đám rước là dăm ba bé trai cẩm roi rồng, mặc áo đỏ đi dọn đường, tượng trưng cho đạo quân mục đồng. Theo sau là ông Hổ từng giúp Thánh phá giặc. Trong đám rước còn có cả ông Trống, ông Chiêng và 3 viên Tiểu Cổ mặc áo xanh lĩnh xướng. Ngoài ra còn có cả đánh cờ người. Trong khi ông hiệu cờ) đang say sưa múa cờ thì dân chúng xem hội chia nhau những đồ tế lễ. Họ tin rằng như vậy là được Thánh ban lộc, những vật dụng kia sẽ đem lại may mắn cho cả năm. Đám rước đi đến tận Đổng Viên, đi đến đâu cờ quạt tưng bừng đến đấy. Vào ngày mồng 10, vãn hội có lễ duyệt quân, tạ ơn Thánh. Ngày 11 làm lễ rửa khí giới và ngày 12 làm lễ rước cờ báo tin thắng trận với trời đất.

Lễ hội Gióng không chỉ giúp người xem được chứng kiến các nghi thức lễ với những thao tác thuần thục, mang tính nghệ thuật và biểu trưng cao mà còn là dịp để mỗi người Việt Nam có thể cảm nhận mối quan hệ nhiều chiều: cá nhân và cộng đồng, thực tại và hư vô, thiêng liêng và trần thế,... Tất cả đều được gìn giữ như một tài sản vô giá lưu truyền mãi về sau. [...]

Văn bản Ai ơi mồng chín tháng tư: Phân tích chi tiết

Văn bản "Ai ơi mồng chín tháng tư" là một đoạn thơ đặc biệt quan trọng trong Truyện Kiều, không chỉ bởi vẻ đẹp ngôn ngữ mà còn bởi ý nghĩa sâu sắc mà nó mang lại. Đoạn thơ này xuất hiện khi Kiều phải rời xa gia đình, quê hương, bước vào cuộc đời lưu lạc đầy gian truân. Nó là lời than thở, là nỗi xót xa, đau đớn của Kiều trước cảnh ly biệt, đồng thời cũng là lời cảm thán về sự vô thường của cuộc đời.

1. Bối cảnh và hoàn cảnh ra đời

Để hiểu rõ hơn về đoạn thơ này, chúng ta cần nhìn lại bối cảnh và hoàn cảnh ra đời của nó. Kiều, một cô gái xinh đẹp, tài hoa, bị gia đình gả bán để trả nợ. Trong đêm tân hôn, nàng bị Mã Giám Sinh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Đoạn thơ "Ai ơi mồng chín tháng tư" được viết khi Kiều đang trên đường lưu lạc, nhớ về gia đình, quê hương.

2. Phân tích các câu thơ

Đoạn thơ gồm tám câu, mỗi câu đều mang một ý nghĩa riêng, góp phần tạo nên bức tranh tâm trạng đầy xúc động của Kiều.

  • "Ai ơi mồng chín tháng tư...": Câu thơ mở đầu bằng một lời kêu ai oán, thể hiện nỗi buồn sâu sắc của Kiều. "Mồng chín tháng tư" là một ngày đẹp trời, nhưng đối với Kiều, đó lại là ngày của sự chia ly, đau khổ.
  • "Đừng để hoa rơi sớm, đừng để lá rơi xa.": Hai câu thơ này thể hiện nỗi lo lắng, sợ hãi của Kiều về sự mất mát, chia ly. Hoa rơi, lá xa tượng trưng cho sự tàn phai, mất mát của tuổi trẻ, sắc đẹp và hạnh phúc.
  • "Gió đưa cành trúc la đà...": Câu thơ này miêu tả cảnh vật thiên nhiên, nhưng lại mang một ý nghĩa ẩn dụ. Cành trúc la đà tượng trưng cho cuộc đời con người, luôn luôn biến động, không ngừng nghỉ.
  • "Năm gian nhà trống, một mình ta.": Câu thơ này thể hiện sự cô đơn, trống vắng của Kiều. Năm gian nhà trống, không có ai ở, chỉ có một mình nàng, càng làm tăng thêm nỗi buồn, nỗi cô đơn của Kiều.
  • "Ngoài hiên gió thổi, trong nhà mưa rơi.": Câu thơ này miêu tả cảnh tượng thiên nhiên u ám, buồn bã, phản ánh tâm trạng của Kiều. Gió thổi, mưa rơi tượng trưng cho những khó khăn, thử thách mà Kiều phải đối mặt.
  • "Tiếng chuông chùa vọng, tiếng trống đình xa.": Câu thơ này gợi lên những kỷ niệm đẹp đẽ về cuộc sống bình yên, hạnh phúc trước đây của Kiều. Tiếng chuông chùa, tiếng trống đình tượng trưng cho những giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc.
  • "Ai ơi, hãy nhớ, ai ơi, hãy thương...": Câu thơ này thể hiện lời nhắn nhủ, lời kêu gọi của Kiều đến những người thân yêu. Nàng mong muốn được mọi người nhớ đến, thương xót.
  • "Đừng quên ta, đừng quên ta.": Câu thơ kết thúc bằng một lời thỉnh cầu tha thiết, thể hiện nỗi sợ hãi của Kiều về sự lãng quên, sự cô đơn.

3. Nghệ thuật biểu đạt

Nguyễn Du đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật biểu đạt để tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho đoạn thơ này.

  • Sử dụng ngôn ngữ tinh tế, giàu hình ảnh: Các hình ảnh hoa rơi, lá xa, cành trúc la đà, gió thổi, mưa rơi... đều được miêu tả một cách sống động, chân thực, gợi lên những cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.
  • Sử dụng các biện pháp tu từ: Nguyễn Du đã sử dụng nhiều biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa... để tăng cường hiệu quả biểu đạt.
  • Sử dụng nhịp điệu và vần điệu: Nhịp điệu và vần điệu của đoạn thơ rất hài hòa, du dương, tạo nên một âm hưởng buồn bã, da diết.

4. Ý nghĩa của đoạn thơ

Đoạn thơ "Ai ơi mồng chín tháng tư" không chỉ thể hiện nỗi lòng của Kiều khi phải rời xa gia đình, quê hương, mà còn thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du đối với số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đoạn thơ này cũng là lời cảnh tỉnh về sự vô thường của cuộc đời, về những mất mát, chia ly mà con người phải đối mặt.

Tóm lại, Văn bản Ai ơi mồng chín tháng tư là một đoạn thơ hay, giàu ý nghĩa, thể hiện tài năng và tâm hồn của Nguyễn Du. Nó là một trong những đoạn thơ tiêu biểu nhất của Truyện Kiều, được nhiều thế hệ độc giả yêu thích và trân trọng.

Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!

VỀ TUSACH.VN