HNNếu nói Năm lá quốc thư của Hồ Anh Thái là bản tự thuật của một người làm ngoại giao trong gần 40 năm, từ những lúc đầu tiên bước chân vào cánh cổng Học viện Ngoại giao cho đến khi chính thức được làm Đại sứ thì cũng không hẳn sai. Nhưng chưa đủ, bởi bản tự thuật này không chỉ nhắc đến đơn thuần những con người, những sự kiện, những cảm xúc của một cá nhân mà ẩn trong đó là hơi thở của lịch sử Ngoại giao, không phải chỉ của riêng một người, một thế hệ, mà của cả nhiều thế hệ với những cung bậc vinh nhục khác nhau. Lá quốc thư thứ nhất dành cho những nhà ngoại giao tay ngang, những con người được phân công làm ngoại giao khi không hề biết gì về cái bổn sự của mình hết, ra đi, lên máy bay, cầm quốc thư theo mà không biết gì về nơi họ đến, họ sống dù họ Đại diện cho tổ quốc, cho màu cờ. Một người hàm bộ trưởng bị thất sủng do những sai lầm, làm Đại sứ chỉ để kiếm "mỗi tháng một chiếc xe máy" trong nhiệm kỳ 3 năm Đại sứ trước khi về hưu. Một người đã đi 37 quốc gia nhưng chưa hề chính thức SỐNG ở bất cứ đâu, tối uống rượu và mực nướng quê nhà. Lá quốc thư thứ hai dành cho một thế hệ những nhà ngoại giao, cận kề với "chuyên nghiệp" nhưng sống trong sự tranh tối tranh sáng của lịch sử, sẵn sàng bán rẻ nhiều thứ, kể cả nguyên tắc nghề nghiệp, để có thể theo đuổi lợi ích trước thờ kỳ đổi mới. Cái thời kỳ mà chẳng những ông Đại sự, mà không biết bao nhiêu tiến sĩ, phó tiến sĩ cũng đổ ra đi buôn. Lá quốc thư thứ ba dành cho một thế hệ nhà ngoại giao, không hẳn là tay ngang, nhưng đầy thủ đoạn. Những người, mà cái bản chất tệ hại của việc mua bán hóa đơn, kê khống hợp đồng lấy tiền chênh lệch được dùng như sự hiển nhiên bên cạnh cái nghiệp vụ đại sứ. Để rồi, chỉ vì bao che cho cái việc làm ấy mà sẵn sàng làm tất cả thủ đoạn, kể cả đến vu khống và thủ tiêu. Lá quốc thư thứ tư, xin dành cho thế hệ nhà ngoại giao chuyên nghiệp đầu tiên, những con người không hẳn được đào tạo ngoại giao nhưng có đam mê với nghề, có năng lực, có tinh thần cầu thị. Nhưng không phải vì một thế hệ ngoại giao chuyên nghiệp, tận tụy như ngài Đại sứ thứ 4 mà có thể che mờ được hết những góc khuất trong nghề ngoại giao. Những tàn dư vẫn còn, những câu chuyện vẫn xảy ra, những con người khốn khổ ấy tuy không phải sống trong cảnh cô đơn 3 năm Đại sứ, đã được mang vợ mang con đi cùng, nhưng chính từ ấy lại có vô số những cảnh thương tâm, những câu chuyện tưởng vụn vặt nhưng thể hiện sự kém cỏi trong cách nghĩ, trong nghiệp vụ
Tiểu NguyễnNếu bạn nói cuốn sách là cuốn tự truyện của một nhà ngoại giao trong gần 40 năm, từ lần đầu tiên bạn bước vào cổng Học viện Ngoại giao cho đến khi chính thức trở thành Đại sứ. Không hẳn là sai. Nhưng điều đó là chưa đủ, bởi vì tài khoản này không chỉ đề cập đến con người, sự kiện, cảm xúc của một cá nhân mà ẩn giấu bên trong nó là hơi thở của lịch sử ngoại giao, không chỉ một người. , một thế hệ, nhưng của nhiều thế hệ với các cấp độ vinh quang khác nhau. Bức thư đầu tiên dành cho các nhà ngoại giao được phân công làm ngoại giao mà không biết nhiệm vụ của họ, rời đi, lên máy bay, cầm một lá thư quốc gia mà không biết. không có gì về nơi họ đến, họ sống cho dù họ đại diện cho đất nước của họ, màu sắc của họ.
Thanh Xuân Lá quốc thư thứ nhất dành cho những nhà ngoại giao tay ngang, những con người được phân công làm ngoại giao khi không hề biết gì về cái bổn sự của mình hết, ra đi, lên máy bay, cầm quốc thư theo mà không biết gì về nơi họ đến, họ sống dù họ Đại diện cho tổ quốc, cho màu cờ. Một người hàm bộ trưởng bị thất sủng do những sai lầm, làm Đại sứ chỉ để kiếm "mỗi tháng một chiếc xe máy" trong nhiệm kỳ 3 năm Đại sứ trước khi về hưu. Một người đã đi 37 quốc gia nhưng chưa hề chính thức SỐNG ở bất cứ đâu, tối uống rượu và mực nướng quê nhà.
Lá quốc thư thứ hai dành cho một thế hệ những nhà ngoại giao, cận kề với "chuyên nghiệp" nhưng sống trong sự tranh tối tranh sáng của lịch sử, sẵn sàng bán rẻ nhiều thứ, kể cả nguyên tắc nghề nghiệp, để có thể theo đuổi lợi ích trước thờ kỳ đổi mới. Cái thời kỳ mà chẳng những ông Đại sự, mà không biết bao nhiêu tiến sĩ, phó tiến sĩ cũng đổ ra đi buôn.
Lá quốc thư thứ ba dành cho một thế hệ nhà ngoại giao, không hẳn là tay ngang, nhưng đầy thủ đoạn. Những người, mà cái bản chất tệ hại của việc mua bán hóa đơn, kê khống hợp đồng lấy tiền chênh lệch được dùng như sự hiển nhiên bên cạnh cái nghiệp vụ đại sứ. Để rồi, chỉ vì bao che cho cái việc làm ấy mà sẵn sàng làm tất cả thủ đoạn, kể cả đến vu khống và thủ tiêu.
Lá quốc thư thứ tư, xin dành cho thế hệ nhà ngoại giao chuyên nghiệp đầu tiên, những con người không hẳn được đào tạo ngoại giao nhưng có đam mê với nghề, có năng lực, có tinh thần cầu thị. Nhưng không phải vì một thế hệ ngoại giao chuyên nghiệp, tận tụy như ngài Đại sứ thứ 4 mà có thể che mờ được hết những góc khuất trong nghề ngoại giao. Những tàn dư vẫn còn, những câu chuyện vẫn xảy ra, những con người khốn khổ ấy tuy không phải sống trong cảnh cô đơn 3 năm Đại sứ, đã được mang vợ mang con đi cùng, nhưng chính từ ấy lại có vô số những cảnh thương tâm, những câu chuyện tưởng vụn vặt nhưng thể hiện sự kém cỏi trong cách nghĩ, trong nghiệp vụ.
Và lá quốc thư thứ năm, dành cho những nhà ngoại giao được đào tạo bài bản, những người sinh viên đầu tiên của học viện Ngoại giao, thế hệ những người được rèn luyện như những chiến sĩ, nghiêm khắc và cẩn trọng về thời gian để sẵn sàng trở thành "chiến sĩ ngoại giao".
Những lá quốc thư, những câu chuyện, những góc khuất, bằng giọng kể của Hồ Anh Thái không còn chỉ là những câu chuyện ngoại giao nữa, nó đã là tấm gương phản ánh tình hình đất nước, một đất nước Việt Nam đang trưởng thành từng ngày, cũng phản ánh một thế giới đang biến động từng ngày.
Trần Cát TườngNếu nói Năm lá quốc thư của Hồ Anh Thái là bản tự thuật của một người làm ngoại giao trong gần 40 năm, từ những lúc đầu tiên bước chân vào cánh cổng Học viện Ngoại giao cho đến khi chính thức được làm Đại sứ thì cũng không hẳn sai.
Nhưng chưa đủ, bởi bản tự thuật này không chỉ nhắc đến đơn thuần những con người, những sự kiện, những cảm xúc của một cá nhân mà ẩn trong đó là hơi thở của lịch sử Ngoại giao, không phải chỉ của riêng một người, một thế hệ, mà của cả nhiều thế hệ với những cung bậc vinh nhục khác nhau.
Lá quốc thư thứ nhất dành cho những nhà ngoại giao tay ngang, những con người được phân công làm ngoại giao khi không hề biết gì về cái bổn sự của mình hết, ra đi, lên máy bay, cầm quốc thư theo mà không biết gì về nơi họ đến, họ sống dù họ Đại diện cho tổ quốc, cho màu cờ. Một người hàm bộ trưởng bị thất sủng do những sai lầm, làm Đại sứ chỉ để kiếm "mỗi tháng một chiếc xe máy" trong nhiệm kỳ 3 năm Đại sứ trước khi về hưu. Một người đã đi 37 quốc gia nhưng chưa hề chính thức SỐNG ở bất cứ đâu, tối uống rượu và mực nướng quê nhà.
Lá quốc thư thứ hai dành cho một thế hệ những nhà ngoại giao, cận kề với "chuyên nghiệp" nhưng sống trong sự tranh tối tranh sáng của lịch sử, sẵn sàng bán rẻ nhiều thứ, kể cả nguyên tắc nghề nghiệp, để có thể theo đuổi lợi ích trước thờ kỳ đổi mới. Cái thời kỳ mà chẳng những ông Đại sự, mà không biết bao nhiêu tiến sĩ, phó tiến sĩ cũng đổ ra đi buôn.
Lá quốc thư thứ ba dành cho một thế hệ nhà ngoại giao, không hẳn là tay ngang, nhưng đầy thủ đoạn. Những người, mà cái bản chất tệ hại của việc mua bán hóa đơn, kê khống hợp đồng lấy tiền chênh lệch được dùng như sự hiển nhiên bên cạnh cái nghiệp vụ đại sứ. Để rồi, chỉ vì bao che cho cái việc làm ấy mà sẵn sàng làm tất cả thủ đoạn, kể cả đến vu khống và thủ tiêu.
Lá quốc thư thứ tư, xin dành cho thế hệ nhà ngoại giao chuyên nghiệp đầu tiên, những con người không hẳn được đào tạo ngoại giao nhưng có đam mê với nghề, có năng lực, có tinh thần cầu thị. Nhưng không phải vì một thế hệ ngoại giao chuyên nghiệp, tận tụy như ngài Đại sứ thứ 4 mà có thể che mờ được hết những góc khuất trong nghề ngoại giao. Những tàn dư vẫn còn, những câu chuyện vẫn xảy ra, những con người khốn khổ ấy tuy không phải sống trong cảnh cô đơn 3 năm Đại sứ, đã được mang vợ mang con đi cùng, nhưng chính từ ấy lại có vô số những cảnh thương tâm, những câu chuyện tưởng vụn vặt nhưng thể hiện sự kém cỏi trong cách nghĩ, trong nghiệp vụ.
Và lá quốc thư thứ năm, dành cho những nhà ngoại giao được đào tạo bài bản, những người sinh viên đầu tiên của học viện Ngoại giao, thế hệ những người được rèn luyện như những chiến sĩ, nghiêm khắc và cẩn trọng về thời gian để sẵn sàng trở thành "chiến sĩ ngoại giao".
Những lá quốc thư, những câu chuyện, những góc khuất, bằng giọng kể của Hồ Anh Thái không còn chỉ là những câu chuyện ngoại giao nữa, nó đã là tấm gương phản ánh tình hình đất nước, một đất nước Việt Nam đang trưởng thành từng ngày, cũng phản ánh một thế giới đang biến động từng ngày.
HN01/09/2020
Nếu nói Năm lá quốc thư của Hồ Anh Thái là bản tự thuật của một người làm ngoại giao trong gần 40 năm, từ những lúc đầu tiên bước chân vào cánh cổng Học viện Ngoại giao cho đến khi chính thức được làm Đại sứ thì cũng không hẳn sai. Nhưng chưa đủ, bởi bản tự thuật này không chỉ nhắc đến đơn thuần những con người, những sự kiện, những cảm xúc của một cá nhân mà ẩn trong đó là hơi thở của lịch sử Ngoại giao, không phải chỉ của riêng một người, một thế hệ, mà của cả nhiều thế hệ với những cung bậc vinh nhục khác nhau. Lá quốc thư thứ nhất dành cho những nhà ngoại giao tay ngang, những con người được phân công làm ngoại giao khi không hề biết gì về cái bổn sự của mình hết, ra đi, lên máy bay, cầm quốc thư theo mà không biết gì về nơi họ đến, họ sống dù họ Đại diện cho tổ quốc, cho màu cờ. Một người hàm bộ trưởng bị thất sủng do những sai lầm, làm Đại sứ chỉ để kiếm "mỗi tháng một chiếc xe máy" trong nhiệm kỳ 3 năm Đại sứ trước khi về hưu. Một người đã đi 37 quốc gia nhưng chưa hề chính thức SỐNG ở bất cứ đâu, tối uống rượu và mực nướng quê nhà. Lá quốc thư thứ hai dành cho một thế hệ những nhà ngoại giao, cận kề với "chuyên nghiệp" nhưng sống trong sự tranh tối tranh sáng của lịch sử, sẵn sàng bán rẻ nhiều thứ, kể cả nguyên tắc nghề nghiệp, để có thể theo đuổi lợi ích trước thờ kỳ đổi mới. Cái thời kỳ mà chẳng những ông Đại sự, mà không biết bao nhiêu tiến sĩ, phó tiến sĩ cũng đổ ra đi buôn. Lá quốc thư thứ ba dành cho một thế hệ nhà ngoại giao, không hẳn là tay ngang, nhưng đầy thủ đoạn. Những người, mà cái bản chất tệ hại của việc mua bán hóa đơn, kê khống hợp đồng lấy tiền chênh lệch được dùng như sự hiển nhiên bên cạnh cái nghiệp vụ đại sứ. Để rồi, chỉ vì bao che cho cái việc làm ấy mà sẵn sàng làm tất cả thủ đoạn, kể cả đến vu khống và thủ tiêu. Lá quốc thư thứ tư, xin dành cho thế hệ nhà ngoại giao chuyên nghiệp đầu tiên, những con người không hẳn được đào tạo ngoại giao nhưng có đam mê với nghề, có năng lực, có tinh thần cầu thị. Nhưng không phải vì một thế hệ ngoại giao chuyên nghiệp, tận tụy như ngài Đại sứ thứ 4 mà có thể che mờ được hết những góc khuất trong nghề ngoại giao. Những tàn dư vẫn còn, những câu chuyện vẫn xảy ra, những con người khốn khổ ấy tuy không phải sống trong cảnh cô đơn 3 năm Đại sứ, đã được mang vợ mang con đi cùng, nhưng chính từ ấy lại có vô số những cảnh thương tâm, những câu chuyện tưởng vụn vặt nhưng thể hiện sự kém cỏi trong cách nghĩ, trong nghiệp vụ
Thanh Xuân 13/10/2019
Lá quốc thư thứ nhất dành cho những nhà ngoại giao tay ngang, những con người được phân công làm ngoại giao khi không hề biết gì về cái bổn sự của mình hết, ra đi, lên máy bay, cầm quốc thư theo mà không biết gì về nơi họ đến, họ sống dù họ Đại diện cho tổ quốc, cho màu cờ. Một người hàm bộ trưởng bị thất sủng do những sai lầm, làm Đại sứ chỉ để kiếm "mỗi tháng một chiếc xe máy" trong nhiệm kỳ 3 năm Đại sứ trước khi về hưu. Một người đã đi 37 quốc gia nhưng chưa hề chính thức SỐNG ở bất cứ đâu, tối uống rượu và mực nướng quê nhà.
Lá quốc thư thứ hai dành cho một thế hệ những nhà ngoại giao, cận kề với "chuyên nghiệp" nhưng sống trong sự tranh tối tranh sáng của lịch sử, sẵn sàng bán rẻ nhiều thứ, kể cả nguyên tắc nghề nghiệp, để có thể theo đuổi lợi ích trước thờ kỳ đổi mới. Cái thời kỳ mà chẳng những ông Đại sự, mà không biết bao nhiêu tiến sĩ, phó tiến sĩ cũng đổ ra đi buôn.
Lá quốc thư thứ ba dành cho một thế hệ nhà ngoại giao, không hẳn là tay ngang, nhưng đầy thủ đoạn. Những người, mà cái bản chất tệ hại của việc mua bán hóa đơn, kê khống hợp đồng lấy tiền chênh lệch được dùng như sự hiển nhiên bên cạnh cái nghiệp vụ đại sứ. Để rồi, chỉ vì bao che cho cái việc làm ấy mà sẵn sàng làm tất cả thủ đoạn, kể cả đến vu khống và thủ tiêu.
Lá quốc thư thứ tư, xin dành cho thế hệ nhà ngoại giao chuyên nghiệp đầu tiên, những con người không hẳn được đào tạo ngoại giao nhưng có đam mê với nghề, có năng lực, có tinh thần cầu thị. Nhưng không phải vì một thế hệ ngoại giao chuyên nghiệp, tận tụy như ngài Đại sứ thứ 4 mà có thể che mờ được hết những góc khuất trong nghề ngoại giao. Những tàn dư vẫn còn, những câu chuyện vẫn xảy ra, những con người khốn khổ ấy tuy không phải sống trong cảnh cô đơn 3 năm Đại sứ, đã được mang vợ mang con đi cùng, nhưng chính từ ấy lại có vô số những cảnh thương tâm, những câu chuyện tưởng vụn vặt nhưng thể hiện sự kém cỏi trong cách nghĩ, trong nghiệp vụ.
Và lá quốc thư thứ năm, dành cho những nhà ngoại giao được đào tạo bài bản, những người sinh viên đầu tiên của học viện Ngoại giao, thế hệ những người được rèn luyện như những chiến sĩ, nghiêm khắc và cẩn trọng về thời gian để sẵn sàng trở thành "chiến sĩ ngoại giao".
Những lá quốc thư, những câu chuyện, những góc khuất, bằng giọng kể của Hồ Anh Thái không còn chỉ là những câu chuyện ngoại giao nữa, nó đã là tấm gương phản ánh tình hình đất nước, một đất nước Việt Nam đang trưởng thành từng ngày, cũng phản ánh một thế giới đang biến động từng ngày.
Trần Cát Tường12/10/2019
Nếu nói Năm lá quốc thư của Hồ Anh Thái là bản tự thuật của một người làm ngoại giao trong gần 40 năm, từ những lúc đầu tiên bước chân vào cánh cổng Học viện Ngoại giao cho đến khi chính thức được làm Đại sứ thì cũng không hẳn sai.
Nhưng chưa đủ, bởi bản tự thuật này không chỉ nhắc đến đơn thuần những con người, những sự kiện, những cảm xúc của một cá nhân mà ẩn trong đó là hơi thở của lịch sử Ngoại giao, không phải chỉ của riêng một người, một thế hệ, mà của cả nhiều thế hệ với những cung bậc vinh nhục khác nhau.
Lá quốc thư thứ nhất dành cho những nhà ngoại giao tay ngang, những con người được phân công làm ngoại giao khi không hề biết gì về cái bổn sự của mình hết, ra đi, lên máy bay, cầm quốc thư theo mà không biết gì về nơi họ đến, họ sống dù họ Đại diện cho tổ quốc, cho màu cờ. Một người hàm bộ trưởng bị thất sủng do những sai lầm, làm Đại sứ chỉ để kiếm "mỗi tháng một chiếc xe máy" trong nhiệm kỳ 3 năm Đại sứ trước khi về hưu. Một người đã đi 37 quốc gia nhưng chưa hề chính thức SỐNG ở bất cứ đâu, tối uống rượu và mực nướng quê nhà.
Lá quốc thư thứ hai dành cho một thế hệ những nhà ngoại giao, cận kề với "chuyên nghiệp" nhưng sống trong sự tranh tối tranh sáng của lịch sử, sẵn sàng bán rẻ nhiều thứ, kể cả nguyên tắc nghề nghiệp, để có thể theo đuổi lợi ích trước thờ kỳ đổi mới. Cái thời kỳ mà chẳng những ông Đại sự, mà không biết bao nhiêu tiến sĩ, phó tiến sĩ cũng đổ ra đi buôn.
Lá quốc thư thứ ba dành cho một thế hệ nhà ngoại giao, không hẳn là tay ngang, nhưng đầy thủ đoạn. Những người, mà cái bản chất tệ hại của việc mua bán hóa đơn, kê khống hợp đồng lấy tiền chênh lệch được dùng như sự hiển nhiên bên cạnh cái nghiệp vụ đại sứ. Để rồi, chỉ vì bao che cho cái việc làm ấy mà sẵn sàng làm tất cả thủ đoạn, kể cả đến vu khống và thủ tiêu.
Lá quốc thư thứ tư, xin dành cho thế hệ nhà ngoại giao chuyên nghiệp đầu tiên, những con người không hẳn được đào tạo ngoại giao nhưng có đam mê với nghề, có năng lực, có tinh thần cầu thị. Nhưng không phải vì một thế hệ ngoại giao chuyên nghiệp, tận tụy như ngài Đại sứ thứ 4 mà có thể che mờ được hết những góc khuất trong nghề ngoại giao. Những tàn dư vẫn còn, những câu chuyện vẫn xảy ra, những con người khốn khổ ấy tuy không phải sống trong cảnh cô đơn 3 năm Đại sứ, đã được mang vợ mang con đi cùng, nhưng chính từ ấy lại có vô số những cảnh thương tâm, những câu chuyện tưởng vụn vặt nhưng thể hiện sự kém cỏi trong cách nghĩ, trong nghiệp vụ.
Và lá quốc thư thứ năm, dành cho những nhà ngoại giao được đào tạo bài bản, những người sinh viên đầu tiên của học viện Ngoại giao, thế hệ những người được rèn luyện như những chiến sĩ, nghiêm khắc và cẩn trọng về thời gian để sẵn sàng trở thành "chiến sĩ ngoại giao".
Những lá quốc thư, những câu chuyện, những góc khuất, bằng giọng kể của Hồ Anh Thái không còn chỉ là những câu chuyện ngoại giao nữa, nó đã là tấm gương phản ánh tình hình đất nước, một đất nước Việt Nam đang trưởng thành từng ngày, cũng phản ánh một thế giới đang biến động từng ngày.