Bài thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống của Hàn Mặc Tử là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của thơ hiện đại Việt Nam. Bài thơ thể hiện nỗi đau khổ, cô đơn và khao khát tình yêu của nhà thơ trong bối cảnh xã hội đầy biến động.
Phân tích bài thơ này, chúng ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu về hình ảnh, ngôn ngữ, và ý nghĩa biểu tượng mà Hàn Mặc Tử đã sử dụng để diễn tả những cảm xúc phức tạp của mình.
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề.
Đề thơ là một phong tục của Trung Quốc xưa, đến đời Đường đã rất thịnh hành. Khách du sơn ngoạn thủy, thăm thú thắng cảnh đền đài, hứng làm thơ, vung bút đề thơ để lưu bút tích và bày tỏ cảm xúc, chí khí của mình. Ta đã biết tương truyền bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Liệu để ở lầu Hoàng Hạc đã làm thơ tiên Lý Bạch bối rối. Hoặc Đề Đô thành nam trang của Thôi Hộ đề trên cánh của một trang văn vắng bóng người dep. Ở nước ta, tục này cũng thịnh hành, trên nhiều hang động đẹp đều lưu bút tích thi nhân.
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xa hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề.
Sầm Nghi Đống là thái thú đất Diễn Châu, Trung Quốc, tùy tướng của Tôn Sĩ Nghị trong cuộc xâm lược Việt Nam năm 1789. Ông được giao giữ đồn Khương Thượng, Đống Đa. Khi bị quân Tây Sơn đánh, ông không chống cự được nên đã thắt cổ tự tử. Để giữ mối quan hệ bang giao hai nước, Quang Trung cho người Hoa lập miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm ngày nay. Theo sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, thì ghi chú có hơi khác: Đống được giao trấn thủ Ngọc Hồi, đồn Ngọc Hồi thất thủ, Đống tự tử. Về sau có đền thờ ở gò láng Ngọc Hồi.
Nhân một dịp đi qua, Hồ Xuân Hương đã làm bài thơ này. Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương đã biểu thị một cái nhìn thiếu trân trọng đối với ngôi đền:
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Những ai được lập đền, dù là quân giặc, đều được coi là thần, đề mọi người đến thắp hương cúng bái, cầu vọng. Nhưng Hồ Xuân Hương thì chỉ ghé mắt trông ngang. Ghé mắt, theo Từ điển Tiếng Việt, là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn, chỉ thuần túy là động tác, không hàm ý kính trọng. Ghé mắt trông ngang chớ không phải trông lên, đã thể hiện một thái độ bất kính đối với vị thần xâm lược thất bại. Đền Thái, thú đứng cheo leo hẳn là đền xây trên gò, và người ta không dễ trông ngang. Rõ ràng Hồ Xuân Hương cố tình chọn một cái nhìn coi thường đối với vị Thái thú ở nơi tha hương này. Chữ cheo leo là một từ đặc sắc, nó chỉ một thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ ụp xuống. Chữ kìa cũng hàm ý bất kính, bởi nó kèm theo các động tác chỉ trỏ, mà đối với các nơi đền đài linh thiêng người đến viếng không được nói to, giơ tay chỉ trỏ như đối với đồ vật. Với hai câu thơ ấy, Hồ Xuân Hương đã tước bỏ hết tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.
Hồ Xuân Hương không chỉ nhìn ngang chỉ trỏ trước một ngôi đền, bà lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ nữa:
Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu
Cái ý nghĩa đổi phận làm trai đã thể hiện cái mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến đã áp đặt vào ý thức nhà thơ. Nhưng mặt khác, nó cũng thế hiện nhu cầu đổi phận, không chịu an phận của bà. Cái cách bà tự xưng là đây để đổi lại với Sầm Nghi Đống là đấy, thì dù bà chưa đổi phận được, bà cũng đã rất coi thường vị nam nhi họ sầm. Câu kết há bấy nhiêu có thể nghĩ rằng Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm gấp nhiều lần, so với sự nghiệp của sầm, song đúng hơn, nên biểu hiện một lời dè bỉu: sự nghiệp của ông có bấy nhiêu thôi ư, nó quá ít đối với một đấng nam nhi đấy!
Bài thơ là một khái vọng được bình đẳng, khát vọng lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của một người phụ nữ. Thái độ "bất kính” của bà là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ, thách thức với các "sự nghiệp anh hùng" của nam nhi, thách thức đối với thần linh. Bài thơ thể hiện mạnh mẽ nhu cầu giải phóng cá tính của con người, bất chấp các ước lệ ràng buộc của xã hội phong kiến.
Một trong nữ thi sĩ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam phải kể đến Hồ Xuân Hương. Bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống của bà gửi gắm giá trị nội dung và nghệ thuật sâu sắc.
Đầu tiên, Sầm Nghi Đống là một tướng giặc theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm lược, chiếm đóng kinh thành Thăng Long, giữ chức thái thú, được giao chấn thủ đồn Ngọc Hồi. Sau khi nhà vua Quang Trung triệt phá đồn Ngọc Hồi (tháng Giêng năm 1978), Sầm Nghi Đống đã tự vẫn. Sau này, khi việc bang giao trở lại bình thường, vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ. Với Hồ Xuân Hương, viên tướng bại trận này không xứng đáng được thờ trong đền. Hai câu đầu giới thiệu hoàn cảnh khi đến đền thờ Sầm Nghi Đống:
“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo”
Ở đây, “ghé mắt” được hiểu là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn. Vậy nên “ghé mắt trông ngang” mà không phải là “trông lên” thể hiện một thái độ coi thường. Tiếp đến, tác giả khắc họa hình ảnh ngôi đền - đang ở vị thế là “đền Thái thú đứng cheo leo” cho thấy thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ xuống. Chữ “kìa” nhằm gợi ra động tác chỉ trỏ, không được tôn trọng. Thái độ trong bài thơ là coi thường, bất kính. Hai câu thơ mở đầu đã bác bỏ hoàn toàn tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.
Hai câu thơ tiếp theo, Hồ Xuân Hương đã bộc lộ suy nghĩ của bản thân:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu”
Ý nghĩ đổi phận làm trai thể hiện thái độ mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến. Tuy nhiên, ở đây còn được hiểu là thái độ không an phận của Hồ Xuân Hương. Nếu như có thể đổi phận làm trai, nhà thơ tự cho mình có thể làm được sự nghiệp lớn lao, trở thành bậc anh hùng.
Bài thơ thể hiện được tư tưởng mới mẻ, hiếm có trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, cho thấy cái tôi mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương. Tác giả đã sử dụng thủ pháp trào phúng nói giễu, cùng với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã thể hiện được nội dung của bài thơ.
Đề đền Sầm Nghi Đống là một bài thơ mang đậm phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương.
Hồ Xuân Hương có nhiều tác phẩm hay, trong đó có thể kể đến bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống.
“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu”
Ở hai câu thơ đầu, tác giả bộc lộ thái độ khi đến đền Sầm Nghi Đống qua hành động “ghé mắt, trông ngang”. Những từ ngữ đã tước bỏ hết tính chất thiêng liêng cần có của một ngôi đền, thể hiện thái độ của tác giả là bất kính, xem thường và giễu cợt với kẻ xâm lược thất bại. Nguyên nhân của thái độ trên là do Sầm Nghi Đống là tướng giặc, theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm lược, chiếm đóng kinh thành Thăng Long, giữ chức thái thú, được giao chấn thủ đồn Ngọc Hồi. Sau khi vua Quang Trung triệt phá đồn Ngọc Hồi (tháng Giêng năm 1978), Sầm Nghi Đống tự vẫn. Sau này, khi việc bang giao trở lại bình thường, vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ. Nhưng với Hồ Xuân Hương thì Sầm Nghi Đống không xứng đáng được lập đền thờ ở đây.
Với hai câu thơ cuối, Hồ Xuân Hương giả định nếu được làm phận trai, thì tin chắc sự nghiệp anh hùng sẽ không ít ỏi, thất bại như Sầm Nghi Đống. Từ đó, nhà thơ muốn bộc lộ suy nghĩ không chấp nhận an phận, khao khát được lập nên sự nghiệp vẻ vang như đấng nam nhi. Bên cạnh đó, tác giả cũng muốn thể hiện thái độ coi thường, đối với sự nghiệp của viên tướng Sầm Nghi Đống.
Bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống được sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt với giọng điệu, cách nhìn đa chiều cho thấy một lối viết văn trào phúng tài hoa.
Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ nổi tiếng. Một trong những tác phẩm hay của bà có thể kể đến Đề đền Sầm Nghi Đống.
Trước hết, Sầm Nghi Đống là tướng giặc theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm lược, chiếm đóng kinh thành Thăng Long, giữ chức thái thú, được giao chấn thủ đồn Ngọc Hồi. Sau khi vua Quang Trung triệt phá đồn Ngọc Hồi (tháng Giêng năm 1978), Sầm Nghi Đống đã tự vẫn. Sau này, khi việc bang giao trở lại bình thường, vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ. Tuy nhiên, theo tác giả bài thơ, viên tướng bại trận này không xứng đáng được thờ trong đền.
“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo”
Cụm từ “ghé mắt” được hiểu là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn. “Ghé mắt trông ngang” mà không phải là “trông lên” thể hiện một thái độ coi thường. Hình ảnh “đền Thái thú đứng cheo leo” cho thấy thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ xuống. Chữ “kìa” gợi ra động tác chỉ trỏ, không được tôn trọng. Rõ ràng, thái độ được bộc lộ ở đây là coi thường, bất kính. Hai câu thơ mở đầu đã bác bỏ hoàn toàn tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.
Ở hai câu thơ tiếp theo, Hồ Xuân Hương lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ trong đền:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.”
Ý nghĩ đổi phận làm trai thể hiện thái độ mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến. Nhưng mặt khác, nó còn thể hiện suy nghĩ không an phận của tác giả. Nếu như có thể đổi phận làm trai, Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm được sự nghiệp lớn lao, trở thành bậc anh hùng. Từ đó, tác giả muốn chế giễu, phê phán tướng giặc Sầm Nghi Đống chỉ có sự nghiệp bấy nhiêu thôi.
Có thể thấy, bài thơ bộc lộ mong muốn được bình đẳng với phụ nữ, khát vọng lập nên sự nghiệp lớn lao. Thái độ “bất kính” trong bài thơ dường như là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ. Bài thơ thể hiện tư tưởng mới mẻ, hiếm có trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, cho thấy cái tôi mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương. Tác giả đã sử dụng thủ pháp trào phúng nói giễu, cùng với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã thể hiện được nội dung của bài thơ.
Đề đền Sầm Nghi Đống là một bài thơ giàu giá trị, mang đậm phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương.
Bài thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống, sáng tác năm 1938, là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Hàn Mặc Tử, thể hiện rõ nét phong cách thơ độc đáo và những trăn trở sâu sắc của ông về thân phận con người và tình yêu. Bài thơ được viết trong bối cảnh Hàn Mặc Tử đang phải đối mặt với căn bệnh cùi, nỗi đau thể xác và tinh thần giày vò, đồng thời chứng kiến sự thay đổi của xã hội.
Bài thơ có thể chia thành ba phần chính:
Phần này giới thiệu về ngôi đền Sầm Nghi Đống, một địa điểm linh thiêng nhưng lại mang vẻ hoang sơ, đổ nát. Hình ảnh “đền” gợi lên sự cổ kính, trang nghiêm, nhưng “đổ nát” lại cho thấy sự tàn lụi, suy vong. Hàn Mặc Tử sử dụng những từ ngữ gợi cảm giác buồn bã, cô đơn để miêu tả cảnh vật, tạo nên một không gian u ám, phù hợp với tâm trạng của nhà thơ.
Phần này diễn tả nỗi đau khổ, cô đơn và khao khát tình yêu của nhà thơ. Hàn Mặc Tử tự nhận mình là một “người bệnh”, một kẻ “lạc loài” trong xã hội. Ông cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng và không tìm thấy sự đồng cảm từ những người xung quanh. Nỗi đau thể xác và tinh thần khiến ông khao khát một tình yêu chân thành, một bờ vai để tựa vào.
Hình ảnh “người thiếu phụ” xuất hiện như một biểu tượng của tình yêu, nhưng lại là một tình yêu xa vời, không thể với tới. Hàn Mặc Tử sử dụng những hình ảnh tương phản để diễn tả sự mâu thuẫn trong tâm hồn mình: “người thiếu phụ” xinh đẹp, trẻ trung đối lập với “người bệnh” già nua, đau khổ.
Phần này thể hiện sự chấp nhận số phận và niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn. Hàn Mặc Tử vẫn giữ vững niềm tin vào tình yêu và hy vọng rằng một ngày nào đó ông sẽ tìm thấy hạnh phúc. Ông chấp nhận sự cô đơn, đau khổ như một phần tất yếu của cuộc đời và tìm thấy sự an ủi trong vẻ đẹp của thiên nhiên.
Bài thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống được viết theo thể thơ tự do, tạo cho nhà thơ sự tự do trong việc thể hiện cảm xúc và suy nghĩ. Hàn Mặc Tử sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc:
Bài thơ Đề Đền Sầm Nghi Đống là một tác phẩm tiêu biểu của Hàn Mặc Tử, thể hiện rõ nét phong cách thơ độc đáo và những trăn trở sâu sắc của ông về thân phận con người và tình yêu. Bài thơ không chỉ là tiếng nói của một cá nhân đau khổ, mà còn là tiếng nói của cả một thế hệ trí thức Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng.
Bài thơ nhắc nhở chúng ta về giá trị của tình yêu, sự đồng cảm và niềm tin vào cuộc sống. Nó cũng là một lời kêu gọi chúng ta hãy trân trọng những gì mình đang có và sống một cuộc đời ý nghĩa.
Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi, tài liệu học tập