hoàng anhBiên sử nước” là một Nguyễn Ngọc Tư với cách viết dường như “sâu” hơn, trừu tượng hơn với những câu chuyện nửa hư nửa thực mang nhiều ẩn ý sâu xa. Ở đó có một người phụ nữ giỏi giang, có bằng bác sĩ bỗng dưng lại chấp nhận sống đời bình thường kiếm tiền rau cháo nuôi đứa con không biết cười sau khi chồng bỏ đi, hay chuyện một người đàn bà bị điên luôn ôm theo đứa con chỉ biết khóc thét đã cứu giúp bốn tên tù trốn trại, cho tới câu chuyện những người ăn chữ trong từng trang sách để sống qua ngày... Nhân vật “tôi” trong từng chương đã kể lại những bi kịch, những khổ đau giằng xé hay những nỗi niềm của chính mình hoặc những mảnh đời xung quanh họ khi sống giữa cuộc đời này. Sợi dây xuyên suốt kết nối họ với nhau chính là niềm tin vào hành trình đi tìm Đức Ngài với trái tim có thể trị bách bệnh như một sự cứu rỗi những phận đời nhỏ bé, cho họ chỗ để bấu víu, để mong chờ, để có động lực mà sống tiếp.
Thanh“Biên sử nước” là một tác phẩm xen lẫn giữa hư ảo với hiện thực. Nó là một vòng lặp tạo nên sự ám ảnh với kết cấu đầu cuối tương ứng. Cách tự sự với cấu trúc lạ lùng, độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư trong tiểu thuyết này khiến người đọc phải tự đặt ra biết bao nhiêu câu hỏi, ta phải lật đi lật lại những trang giấy để tìm chiếc chìa khóa mở cánh cửa chứa đựng những giải đáp. Cách viết đảo ngược trật tự thời gian khiến người đọc ban đầu là khó hiểu, sau đó là tò mò rồi lần theo mạch truyện lại vỡ lẽ nhiều điều. Ta như hoà mình vào trò trốn tìm. Ẩn số cần ta nhọc công tìm kiếm thì mới lộ ra. Nước gắn liền với cuộc đời, số phận của biết bao con người trong các câu chuyện. Vẫn là đặc trưng của miền Tây nhưng trong tiểu thuyết này, miền Tây hiện lên lạ lẫm vô cùng qua chuỗi truyện đôi lúc quá hư ảo, mơ hồ, con người vừa mang chất đời, vừa ma mị, lạ thường. Cũng chung cái mạch buồn như biết bao tác phẩm khác nhưng “Biên sử nước” không chỉ là cái buồn mênh mang, diệu vợi. Trên cả cái buồn là những trăn trở, tự vấn, là hành trình kiếm tìm... Đặc biệt, với tác phẩm này, tôi thấy được một Nguyễn Ngọc Tư thoát xác như chú ve sầu lột đi lớp vỏ cũ. Cách viết của nhà văn không còn đơn thuần, mộc mạc thôi mà trở nên trúc trắc, gồ ghề, chồng chéo các sự kiện và khai thác ý ở tầng sâu.
DiễmNgười đọc đã quá quen với một Nguyễn Ngọc Tư đem nỗi buồn hòa vào sông nước, vào những phận người, phận đời. Đọc văn của cô Tư, ít khi nào tôi phải căng óc để suy nghĩ hay nhăn trán đi tìm những ẩn số. Cho đến khi đọc “Biên sử nước” thì rõ ràng, tôi đã bắt gặp một khúc cua thật gắt, thật ngoạn mục.
“Biên sử nước” là một tác phẩm xen lẫn giữa hư ảo với hiện thực. Nó là một vòng lặp tạo nên sự ám ảnh với kết cấu đầu cuối tương ứng. Chương 1 và chương cuối đều chỉ vỏn vẹn một thông tin duy nhất “Ngày hai ngàn không trăm bốn mươi sáu, Đức Ngài chỉ còn mỗi trái tim. Người đàn bà sẽ lấy nó đã tới bên kia sông, tay bồng đứa nhỏ”.
Lấy mốc thời gian nào để xác định đó là ngày hai ngàn không trăm bốn mươi sáu, vì sao Đức Ngài chỉ còn mỗi trái tim, người đàn bà bồng đứa nhỏ là ai? Tôi vẫn không có câu trả lời thỏa đáng cho những câu hỏi đó sau khi đọc tác phẩm. Đặc biệt, người đàn bà tay bồng đứa nhỏ đi đến miệt Vạn Thủy tìm trái tim chữa được bách bệnh của Đức Ngài, chủ nhân của một cù lao đầy vàng, càng không được xác định rõ cụ thể là người đàn bà nào trong những câu chuyện mà tác giả đã kể.
Tác phẩm mở ra với điểm đến là nơi có trái tim Đức Ngài rồi tỏa ra như nhiều nhánh sông với hàng loạt câu chuyện cùng nhiều người kể chuyện xưng tôi khác nhau. Người đàn bà được nhắc đến ban đầu là ai trong những người đàn bà xuất hiện trong các câu chuyện về sau? Người đàn bà điên có đứa con gào rống, khóc mãi không thôi, người đàn bà có con bị mụt ghẻ vì ruồi cắn, người đàn bà “nằm giữa đống dăm bào ướt nhẹp mồ hôi pha với máu” do bị hãm hiếp, hay người đàn bà bỏ đi để lại căn phòng đầy gián…? Người đàn bà kia vì quá thương con nên bất chấp tất cả, làm tất cả để vì con. Có thể chỉ có một người đàn bà đến Vạn Thủy nhưng nó là đại diện cho tất cả những người đàn bà vượt vạn dặm, tìm mọi cách để con mình có thể sống khỏe mạnh, hạnh phúc.
Cách tự sự với cấu trúc lạ lùng, độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư trong tiểu thuyết này khiến người đọc phải tự đặt ra biết bao nhiêu câu hỏi, ta phải lật đi lật lại những trang giấy để tìm chiếc chìa khóa mở cánh cửa chứa đựng những giải đáp. Cách viết đảo ngược trật tự thời gian khiến người đọc ban đầu là khó hiểu, sau đó là tò mò rồi lần theo mạch truyện lại vỡ lẽ nhiều điều. Ta như hoà mình vào trò trốn tìm. Ẩn số cần ta nhọc công tìm kiếm thì mới lộ ra.
Hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư đề có dáng hình của nước. Tác phẩm này cũng vậy. Nhan đề đã có chữ nước, các câu chuyện cũng lênh láng dáng hình của nước: Nước mưa hòa lẫn với dòng máu của Phúc đẹp lạ lùng, nước lũ nhấn chìm đồi Tro, nước chiếm đóng sân lễ, xứ cù lao với kẻ xây dựng nên đế chế riêng… Nước gắn liền với cuộc đời, số phận của biết bao con người trong các câu chuyện. Vẫn là đặc trưng của miền Tây nhưng trong tiểu thuyết này, miền Tây hiện lên lạ lẫm vô cùng qua chuỗi truyện đôi lúc quá hư ảo, mơ hồ, con người vừa mang chất đời, vừa ma mị, lạ thường.
Cũng chung cái mạch buồn như biết bao tác phẩm khác nhưng “Biên sử nước” không chỉ là cái buồn mênh mang, diệu vợi. Trên cả cái buồn là những trăn trở, tự vấn, là hành trình kiếm tìm... Đặc biệt, với tác phẩm này, tôi thấy được một Nguyễn Ngọc Tư thoát xác như chú ve sầu lột đi lớp vỏ cũ. Cách viết của nhà văn không còn đơn thuần, mộc mạc thôi mà trở nên trúc trắc, gồ ghề, chồng chéo các sự kiện và khai thác ý ở tầng sâu.
Ngọc MaiHầu hết các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư đề có dáng hình của nước. Tác phẩm này cũng vậy. Nhan đề đã có chữ nước, các câu chuyện cũng lênh láng dáng hình của nước:
" Nước mưa hòa lẫn với dòng máu của Phúc đẹp lạ lùng, nước lũ nhấn chìm đồi Tro, nước chiếm đóng sân lễ, xứ cù lao với kẻ xây dựng nên đế chế riêng… "
Nước gắn liền với cuộc đời, số phận của biết bao con người trong các câu chuyện. Vẫn là đặc trưng của miền Tây nhưng trong tiểu thuyết này, miền Tây hiện lên lạ lẫm vô cùng qua chuỗi truyện đôi lúc quá hư ảo, mơ hồ, con người vừa mang chất đời, vừa ma mị, lạ thường. Cũng chung cái mạch buồn như biết bao tác phẩm khác nhưng “Biên sử nước” không chỉ là cái buồn mênh mang, diệu vợi. Trên cả cái buồn là những trăn trở, tự vấn, là hành trình kiếm tìm... Đặc biệt, với tác phẩm này, tôi thấy được một Nguyễn Ngọc Tư thoát xác như chú ve sầu lột đi lớp vỏ cũ. Cách viết của nhà văn không còn đơn thuần, mộc mạc thôi mà trở nên trúc trắc, gồ ghề, chồng chéo các sự kiện và khai thác ý ở tầng sâu.
Yu“Chỉ có một điều chắc chắn, chị Tuỳ không nằm trong nhóm xấu nhất cũng chẳng ở đám đẹp nhất. Chị chìm lẫn vào đám con gái xa xôi, cũng tóc buộc nhỏng đằng sau cũng sắc da đường nâu lai tạp từ thổ dân hàng trăm năm trước cũng ngồi đâu đó sau các sạp chợ tiệm may hay ẩn hiện trong mấy quán ăn. Họ ở đó nhưng chẳng ai nhớ rõ. Rồi một vài chân dung được gỡ ra khỏi bề mặt mơ lẫn khi ai đó giết chồng ai đó đi lạc sang mãi châu Phi ai đó bị nan y tứ chứng ai đó chửa hoang.”
Không còn là Nguyễn Ngọc Tư với cách viết đơn giản dễ đọc dễ hiểu như những mẩu truyện trong “Cánh đồng bất tận” hay “Hành lý hư vô”... Mặc dù vẫn kể về những phận đời chìm nổi nhưng ở tiểu thuyết “Biên sử nước” là một Nguyễn Ngọc Tư với cách viết dường như “sâu” hơn, trừu tượng hơn với những câu chuyện nửa hư nửa thực mang nhiều ẩn ý sâu xa.
Ở đó có một người phụ nữ giỏi giang, có bằng bác sĩ bỗng dưng lại chấp nhận sống đời bình thường kiếm tiền rau cháo nuôi đứa con không biết cười sau khi chồng bỏ đi, hay chuyện một người đàn bà bị điên luôn ôm theo đứa con chỉ biết khóc thét đã cứu giúp bốn tên tù trốn trại, cho tới câu chuyện những người ăn chữ trong từng trang sách để sống qua ngày...
Nhân vật “tôi” trong từng chương đã kể lại những bi kịch, những khổ đau giằng xé hay những nỗi niềm của chính mình hoặc những mảnh đời xung quanh họ khi sống giữa cuộc đời này. Sợi dây xuyên suốt kết nối họ với nhau chính là niềm tin vào hành trình đi tìm Đức Ngài với trái tim có thể trị bách bệnh như một sự cứu rỗi những phận đời nhỏ bé, cho họ chỗ để bấu víu, để mong chờ, để có động lực mà sống tiếp.
thanhSẽ có rất nhiều câu hỏi quanh Biên Sử Nước. Và chắc rằng có người nói Tư không còn là Tư của vịt chạy đồng, cây ô rô, bến đò hay câu chuyện của người nghèo nữa.
Tư của Biên Sử Nước đã thăng hạng trong chính sự nghiệp văn chương của mình.
Biên Sử Nước làm mình bồi hồi pha lẫn sự bứt rứt đến nỗi bất an khi khép lại trang cuối cùng.
Thanh17/11/2020
“Biên sử nước” là một tác phẩm xen lẫn giữa hư ảo với hiện thực. Nó là một vòng lặp tạo nên sự ám ảnh với kết cấu đầu cuối tương ứng. Cách tự sự với cấu trúc lạ lùng, độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư trong tiểu thuyết này khiến người đọc phải tự đặt ra biết bao nhiêu câu hỏi, ta phải lật đi lật lại những trang giấy để tìm chiếc chìa khóa mở cánh cửa chứa đựng những giải đáp. Cách viết đảo ngược trật tự thời gian khiến người đọc ban đầu là khó hiểu, sau đó là tò mò rồi lần theo mạch truyện lại vỡ lẽ nhiều điều. Ta như hoà mình vào trò trốn tìm. Ẩn số cần ta nhọc công tìm kiếm thì mới lộ ra. Nước gắn liền với cuộc đời, số phận của biết bao con người trong các câu chuyện. Vẫn là đặc trưng của miền Tây nhưng trong tiểu thuyết này, miền Tây hiện lên lạ lẫm vô cùng qua chuỗi truyện đôi lúc quá hư ảo, mơ hồ, con người vừa mang chất đời, vừa ma mị, lạ thường. Cũng chung cái mạch buồn như biết bao tác phẩm khác nhưng “Biên sử nước” không chỉ là cái buồn mênh mang, diệu vợi. Trên cả cái buồn là những trăn trở, tự vấn, là hành trình kiếm tìm... Đặc biệt, với tác phẩm này, tôi thấy được một Nguyễn Ngọc Tư thoát xác như chú ve sầu lột đi lớp vỏ cũ. Cách viết của nhà văn không còn đơn thuần, mộc mạc thôi mà trở nên trúc trắc, gồ ghề, chồng chéo các sự kiện và khai thác ý ở tầng sâu.
Diễm16/11/2020
Người đọc đã quá quen với một Nguyễn Ngọc Tư đem nỗi buồn hòa vào sông nước, vào những phận người, phận đời. Đọc văn của cô Tư, ít khi nào tôi phải căng óc để suy nghĩ hay nhăn trán đi tìm những ẩn số. Cho đến khi đọc “Biên sử nước” thì rõ ràng, tôi đã bắt gặp một khúc cua thật gắt, thật ngoạn mục.
“Biên sử nước” là một tác phẩm xen lẫn giữa hư ảo với hiện thực. Nó là một vòng lặp tạo nên sự ám ảnh với kết cấu đầu cuối tương ứng. Chương 1 và chương cuối đều chỉ vỏn vẹn một thông tin duy nhất “Ngày hai ngàn không trăm bốn mươi sáu, Đức Ngài chỉ còn mỗi trái tim. Người đàn bà sẽ lấy nó đã tới bên kia sông, tay bồng đứa nhỏ”.
Lấy mốc thời gian nào để xác định đó là ngày hai ngàn không trăm bốn mươi sáu, vì sao Đức Ngài chỉ còn mỗi trái tim, người đàn bà bồng đứa nhỏ là ai? Tôi vẫn không có câu trả lời thỏa đáng cho những câu hỏi đó sau khi đọc tác phẩm. Đặc biệt, người đàn bà tay bồng đứa nhỏ đi đến miệt Vạn Thủy tìm trái tim chữa được bách bệnh của Đức Ngài, chủ nhân của một cù lao đầy vàng, càng không được xác định rõ cụ thể là người đàn bà nào trong những câu chuyện mà tác giả đã kể.
Tác phẩm mở ra với điểm đến là nơi có trái tim Đức Ngài rồi tỏa ra như nhiều nhánh sông với hàng loạt câu chuyện cùng nhiều người kể chuyện xưng tôi khác nhau. Người đàn bà được nhắc đến ban đầu là ai trong những người đàn bà xuất hiện trong các câu chuyện về sau? Người đàn bà điên có đứa con gào rống, khóc mãi không thôi, người đàn bà có con bị mụt ghẻ vì ruồi cắn, người đàn bà “nằm giữa đống dăm bào ướt nhẹp mồ hôi pha với máu” do bị hãm hiếp, hay người đàn bà bỏ đi để lại căn phòng đầy gián…? Người đàn bà kia vì quá thương con nên bất chấp tất cả, làm tất cả để vì con. Có thể chỉ có một người đàn bà đến Vạn Thủy nhưng nó là đại diện cho tất cả những người đàn bà vượt vạn dặm, tìm mọi cách để con mình có thể sống khỏe mạnh, hạnh phúc.
Cách tự sự với cấu trúc lạ lùng, độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư trong tiểu thuyết này khiến người đọc phải tự đặt ra biết bao nhiêu câu hỏi, ta phải lật đi lật lại những trang giấy để tìm chiếc chìa khóa mở cánh cửa chứa đựng những giải đáp. Cách viết đảo ngược trật tự thời gian khiến người đọc ban đầu là khó hiểu, sau đó là tò mò rồi lần theo mạch truyện lại vỡ lẽ nhiều điều. Ta như hoà mình vào trò trốn tìm. Ẩn số cần ta nhọc công tìm kiếm thì mới lộ ra.
Hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư đề có dáng hình của nước. Tác phẩm này cũng vậy. Nhan đề đã có chữ nước, các câu chuyện cũng lênh láng dáng hình của nước: Nước mưa hòa lẫn với dòng máu của Phúc đẹp lạ lùng, nước lũ nhấn chìm đồi Tro, nước chiếm đóng sân lễ, xứ cù lao với kẻ xây dựng nên đế chế riêng… Nước gắn liền với cuộc đời, số phận của biết bao con người trong các câu chuyện. Vẫn là đặc trưng của miền Tây nhưng trong tiểu thuyết này, miền Tây hiện lên lạ lẫm vô cùng qua chuỗi truyện đôi lúc quá hư ảo, mơ hồ, con người vừa mang chất đời, vừa ma mị, lạ thường.
Cũng chung cái mạch buồn như biết bao tác phẩm khác nhưng “Biên sử nước” không chỉ là cái buồn mênh mang, diệu vợi. Trên cả cái buồn là những trăn trở, tự vấn, là hành trình kiếm tìm... Đặc biệt, với tác phẩm này, tôi thấy được một Nguyễn Ngọc Tư thoát xác như chú ve sầu lột đi lớp vỏ cũ. Cách viết của nhà văn không còn đơn thuần, mộc mạc thôi mà trở nên trúc trắc, gồ ghề, chồng chéo các sự kiện và khai thác ý ở tầng sâu.
Ngọc Mai15/11/2020
Hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư đề có dáng hình của nước. Tác phẩm này cũng vậy. Nhan đề đã có chữ nước, các câu chuyện cũng lênh láng dáng hình của nước:
" Nước mưa hòa lẫn với dòng máu của Phúc đẹp lạ lùng, nước lũ nhấn chìm đồi Tro, nước chiếm đóng sân lễ, xứ cù lao với kẻ xây dựng nên đế chế riêng… "
Nước gắn liền với cuộc đời, số phận của biết bao con người trong các câu chuyện. Vẫn là đặc trưng của miền Tây nhưng trong tiểu thuyết này, miền Tây hiện lên lạ lẫm vô cùng qua chuỗi truyện đôi lúc quá hư ảo, mơ hồ, con người vừa mang chất đời, vừa ma mị, lạ thường. Cũng chung cái mạch buồn như biết bao tác phẩm khác nhưng “Biên sử nước” không chỉ là cái buồn mênh mang, diệu vợi. Trên cả cái buồn là những trăn trở, tự vấn, là hành trình kiếm tìm... Đặc biệt, với tác phẩm này, tôi thấy được một Nguyễn Ngọc Tư thoát xác như chú ve sầu lột đi lớp vỏ cũ. Cách viết của nhà văn không còn đơn thuần, mộc mạc thôi mà trở nên trúc trắc, gồ ghề, chồng chéo các sự kiện và khai thác ý ở tầng sâu.