
| Thông Tin Chi Tiết | |
|---|---|
| Tên Nhà Cung Cấp | Nhã Nam |
| Tác giả | haruki murakami |
| NXB | NXB Hội Nhà Văn |
| Năm XB | 2020 |
| Ngôn Ngữ | Tiếng Việt |
| Trọng lượng (gr) | |
| Kích Thước Bao Bì | 24 x 15 cm x 3.5 |
| Số trang | 719 |
Bạn đang đọc Sách biên niên ký chim vặn dây cót (tái bản 2020) được Tác giả haruki murakami sáng tác, và xuất bản vào năm 2020 bởi nhà xuất bản NXB Hội Nhà Văn.
Sách biên niên ký chim vặn dây cót (tái bản 2020) thuộc chủ đề Sách Trong Nước, Văn học, Tiểu thuyết, nằm trong chuyên mục Sách Trong Nước tại TuSach.vn.
Bạn có thể mua sách tại Shopee, Lazada, TiKi, Fahasa theo liên kết ở dưới để ủng hộ tác giả bạn nhé.
Ngoài ra bạn có thể Tải sách biên niên ký chim vặn dây cót (tái bản 2020) PDF tại đây:
Toru Okada, một luật sư vừa quyết định rời bỏ công việc, đang tận hưởng một cuộc sống bình dị và tĩnh lặng bên người vợ Kumiko. Tuy nhiên, sự bình yên đó bị phá vỡ khi con mèo yêu quý của anh đột ngột biến mất. Ngay sau đó, một sự kiện bất ngờ khác xảy ra: Kumiko rời bỏ anh, chỉ để lại một lời nhắn ngắn gọn, yêu cầu anh đừng tìm kiếm cô. Toru bắt đầu hành trình tìm kiếm vợ và con mèo, nhưng quá trình này liên tục bị gián đoạn bởi sự xuất hiện của những nhân vật kỳ lạ và những sự kiện khó lý giải trong cuộc sống của anh. Đó là một cô gái điếm với những cuộc gọi quấy rối, hai chị em thầy đồng bí ẩn, một cô bé 16 tuổi ám ảnh bởi cái chết của bạn trai, gọi anh là “Chim vặn dây cót”, và một cựu chiến binh với những câu chuyện kinh hoàng về chiến tranh.
Là một người con duy nhất trong gia đình, tôi luôn tự hỏi cảm giác của những người anh chị em ruột khi gặp lại nhau sau khi đã trưởng thành và có cuộc sống riêng. Trong trường hợp của Kumiko, mỗi khi ai đó nhắc đến Wataya Noboru, cô lại có một biểu cảm kỳ lạ trên khuôn mặt, như thể vừa nếm phải một vị đắng khó chịu. Tuy nhiên, chính xác thì biểu cảm đó ẩn chứa điều gì, tôi không thể nào biết được. Bản thân tôi cũng không hề có thiện cảm với Noboru, và Kumiko cũng nhận ra điều đó, cho rằng đó là điều hoàn toàn tự nhiên. Cô cũng không ưa gì anh trai mình. Nếu không phải là anh em ruột, có lẽ họ sẽ không bao giờ nói chuyện với nhau. Nhưng thực tế, họ là anh em, và điều đó càng khiến mọi chuyện trở nên phức tạp.
Sau khi tôi cãi vã gay gắt với cha Kumiko và quyết định cắt đứt quan hệ với gia đình, Kumiko gần như không có dịp gặp lại Wataya Noboru. Cuộc cãi vã đó thực sự rất dữ dội. Tôi không phải là người hay tranh cãi, nhưng khi bị đẩy đến bước đường cùng, tôi sẽ nói ra tất cả những gì dồn nén trong lòng. Sau mỗi lần như vậy, khi đã trút hết mọi cảm xúc, cơn giận của tôi lại biến mất một cách kỳ lạ. Tôi không còn căm ghét, không còn phẫn uất, chỉ còn cảm thấy nhẹ nhõm vì sẽ không bao giờ phải gặp lại ông ta nữa; rằng tôi đã gỡ bỏ được gánh nặng đã đeo mang quá lâu. Thậm chí, tôi còn cảm thấy thông cảm với cuộc đời đầy gian truân vất vả của ông ta, dù cuộc đời đó có vẻ ngu ngốc và đáng khinh bỉ đến đâu đi nữa. Tôi nói với Kumiko rằng tôi sẽ không bao giờ gặp lại cha mẹ cô nữa, nhưng cô có thể về thăm họ bất cứ khi nào muốn, chỉ là tôi sẽ không đi cùng. Tuy nhiên, Kumiko cũng không có ý định về thăm cha mẹ.
Wataya Noboru sống cùng cha mẹ, nhưng khi cuộc cãi vã bùng nổ giữa cha anh ta và tôi, anh ta chỉ lặng lẽ rút lui, không nói một lời với ai. Điều đó không khiến tôi ngạc nhiên. Anh ta không quan tâm đến tôi, cố gắng tránh mặt tôi trừ những lúc thực sự cần thiết. Vì vậy, khi tôi không còn đến thăm cha mẹ Kumiko, tôi cũng không còn lý do gì để gặp Wataya Noboru. Bản thân Kumiko cũng không có lý do đặc biệt nào để gặp anh ta. Họ bận rộn, nhưng điều quan trọng nhất là hai người chưa bao giờ thân thiết với nhau.
Tuy vậy, thỉnh thoảng Kumiko cũng gọi điện đến văn phòng khoa của anh ta, và đôi khi anh ta cũng gọi điện cho cô ở công ty (nhưng không bao giờ gọi về nhà chúng tôi). Cô thường kể lại với tôi về những cuộc trò chuyện đó, nhưng không đi vào chi tiết. Tôi không bao giờ hỏi, và cô cũng không tự kể thêm nếu không cần thiết.
Tôi không cần biết Kumiko và Wataya Noboru nói với nhau những gì. Điều đó không có nghĩa là tôi khó chịu khi biết họ có nói chuyện với nhau. Đơn giản là tôi không hiểu hai con người khác biệt như vậy có gì để nói với nhau? Hay chỉ vì họ là anh em ruột nên mới có chuyện để nói?
Mặc dù là anh em, Wataya Noboru và Kumiko lại cách nhau đến chín tuổi. Một lý do nữa khiến hai anh em ít gần gũi nhau là vì Kumiko đã sống với ông bà nội suốt mấy năm liền khi còn nhỏ.
Gia đình Wataya không chỉ có hai người con là Kumiko và Noboru. Giữa hai anh em còn có một người con gái nữa, lớn hơn Kumiko năm tuổi. Tuy nhiên, khi Kumiko mới ba tuổi, cha mẹ đã gửi cô từ Tokyo về tỉnh Niigata xa xôi cho bà nội nuôi nấng một thời gian. Cha mẹ giải thích rằng họ làm vậy vì Kumiko thường xuyên ốm đau, và không khí trong lành ở thôn quê sẽ tốt cho sức khỏe của cô. Nhưng Kumiko không bao giờ tin vào lời giải thích đó. Cô không nhớ mình từng ốm nặng bao giờ, và những người thân ở Niigata cũng không quá lo lắng về sức khỏe của cô. “Em chắc chắn đó chỉ là một cái cớ thôi”, Kumiko đã nói với tôi như vậy.
Nỗi ngờ vực của cô được củng cố bởi một câu chuyện cô nghe được từ một người bà con. Hóa ra, mẹ và bà nội của Kumiko từng có một mối bất hòa kéo dài, và quyết định đưa Kumiko về Niigata là kết quả của một thỏa thuận giữa hai người. Bằng cách giao con cho bà nội nuôi một thời gian, cha mẹ Kumiko đã làm bà nguôi giận, còn bà nội lại củng cố được mối quan hệ với con trai (tức cha của Kumiko) nhờ có cháu để nuôi. Nói cách khác, Kumiko đã trở thành một con tin.
“Ngoài ra,” Kumiko kể với tôi, “ba mẹ em đã có hai đứa con rồi, nên việc cho đi đứa thứ ba cũng không phải là một mất mát quá lớn. Dĩ nhiên là ba mẹ không có ý bỏ em luôn; hình như ba mẹ chỉ nghĩ rằng vì em còn quá nhỏ nên việc đi xa khỏi nhà như thế cũng chẳng hề gì. Có lẽ ba mẹ đã không nghĩ thấu đáo về chuyện đó. Em không biết tại sao ba mẹ chẳng hiểu rằng chuyện đó có thể tác động như thế nào đến một đứa bé.”
Cô được bà nội nuôi nấng ở Niigata từ năm ba tuổi đến năm sáu tuổi. Những năm tháng đó trong đời cô không thể gọi là u buồn hay phi tự nhiên. Bà nội cưng chiều cô như trứng mỏng, và Kumiko cũng thích chơi với những người anh em họ gần tuổi mình hơn là chơi với anh chị ruột vốn lớn hơn cô nhiều. Cuối cùng, khi Kumiko đến tuổi đi học, cha mẹ đón cô về Tokyo. Họ bắt đầu lo lắng vì cô đã xa họ quá lâu, và khăng khăng đòi đưa cô về trước khi quá muộn. Nhưng theo một nghĩa nào đó, đã quá muộn. Suốt mấy tuần sau khi quyết định cho cô về lại Tokyo, bà nội ngày càng rơi vào trạng thái kích động. Bà không ăn, không ngủ, lúc khóc, lúc cười, lúc lại hoàn toàn im lặng. Bà vừa siết chặt Kumiko vào lòng đến tức thở, vừa lấy thước kẻ đánh vào tay cô đến nỗi hằn cả lằn đỏ. Bà vừa bảo bà không muốn cho cháu đi, rằng bà thà chết còn hơn mất cháu, vừa bảo bà không muốn thấy mặt cháu nữa, rằng bà muốn tống cháu đi cho khuất mắt. Bà rủa xả mẹ Kumiko, bảo bà là một mụ đàn bà khốn nạn. Thậm chí bà còn đâm kéo vào cổ tay định tự sát. Kumiko không hiểu nổi điều gì đang diễn ra quanh mình nữa. Mọi chuyện vượt quá khả năng lĩnh hội của cô.
Thế là cô quyết định khép kín mình trước thế giới bên ngoài. Cô nhắm mắt lại, bịt tai lại, đóng chặt tâm trí mình. Cô không nghĩ gì nữa, không hy vọng gì nữa. Mấy tháng sau đó là một khoảng trống hoàn toàn trong ký ức của cô. Cô không nhớ bất cứ điều gì xảy ra trong thời gian đó. Khi hồi tỉnh, cô thấy mình đang ở trong một ngôi nhà mới. Đó là ngôi nhà nơi lẽ ra cô đã sống từ xưa đến nay. Cha mẹ cô sống ở đó, anh trai cô cũng vậy, chị gái cô cũng vậy. Nhưng đó không phải là nhà của cô. Nó chỉ là một môi trường sống mới mà thôi.
Kumiko trở thành một đứa trẻ lầm lì, khó tính trong môi trường mới đó. Không ai là người cô có thể tin tưởng, không ai là người cô có thể tin cậy một cách vô điều kiện. Ngay cả trong vòng tay cha mẹ, cô cũng không bao giờ hoàn toàn thoải mái. Cô không quen với mùi cơ thể họ; cái mùi lạ lẫm đó khiến cô bứt rứt khó chịu, thậm chí đôi khi cô còn căm ghét nó. Người duy nhất trong nhà mà Kumiko dần dần cởi mở hơn, dù một cách khó khăn, là chị gái. Cha mẹ đã hết còn hy vọng có thể gần gũi được cô bé; anh trai gần như không biết tới sự tồn tại của cô. Nhưng chị gái thì thấu hiểu sự bấn loạn và nỗi cô đơn ẩn sau thái độ bướng bỉnh đó. Chị ở suốt ngày bên Kumiko, ngủ cùng buồng với cô, nói chuyện với cô, đọc sách cho cô nghe, đưa cô đi học, giúp cô làm bài tập. Những khi Kumiko rúc vào một góc buồng mà khóc hàng giờ, chị gái luôn có mặt, ngồi một bên, ôm chặt cô vào lòng. Chị làm tất cả những gì có thể để tìm đường đến với cõi lòng sâu kín của Kumiko. Giá như chị không chết vì trúng độc thức ăn chỉ một năm sau khi Kumiko từ Niigata trở về thì mọi chuyện hẳn đã khác đi rất nhiều.
“Nếu chị còn sống thì mọi chuyện trong gia đình hẳn đã tốt hơn rồi,” Kumiko nói. “Mới mười một tuổi chị ấy đã là trụ cột về tinh thần cho cả gia đình. Giá như chị không chết thì mọi người khác trong nhà hẳn đã ít khác người hơn. Ít nhất thì em cũng không phải là một trường hợp hết thuốc chữa như thế này. Anh có hiểu ý em không? Em thấy mình thật có lỗi sau chuyện đó. Tại sao em không chết thay cho chị? Tại sao em đây, một đứa chẳng ai cần tới, chẳng đem lại niềm vui cho ai, tại sao em không chết đi? Ba mẹ và anh trai hiểu rõ cảm xúc của em, nhưng họ không hé một lời để an ủi em. Mà đâu chỉ có thế. Họ không từ bất cứ cơ hội nào để nói về người chị quá cố của em: nào chị ấy xinh, nào chị ấy thông minh, nào ai cũng thích chị ấy, nào chị ấy chu đáo quan tâm đến mọi người, nào chị ấy chơi piano giỏi! Thế rồi họ bắt em phải học chơi piano! Sau khi chị mất thì cũng phải có ai đó sử dụng cây đàn piano to đùng kia chứ. Nhưng em chẳng thích chơi piano tí nào cả! Em biết mình sẽ chẳng bao giờ chơi hay như chị ấy, em cũng không cần có thêm một cách để chứng minh em kém cỏi đến độ nào so với chị ấy. Em không thể thế chỗ cho bất cứ ai, nói gì đến cho chị ấy. Nhưng chẳng ai nghe em. Không ai thèm nghe em cả!”
Tôi vô cùng phẫn nộ với gia đình Kumiko khi nghe cô kể. Phẫn nộ vì những gì họ đã làm với cô, vì những gì họ đã không làm được cho cô. Ấy là hồi chúng tôi chưa cưới. Hai chúng tôi chỉ mới quen nhau được hơn hai tháng. Đó là một sáng Chủ nhật yên tĩnh, chúng tôi đang nằm trên giường. Cô kể một hồi lâu về thời thơ ấu, như thể gỡ dần một sợi chỉ rối, thỉnh thoảng lại ngừng để đánh giá tầm quan trọng của từng sự kiện cô vừa thổ lộ. Đó là lần đầu tiên cô kể nhiều đến vậy về mình. Trước buổi sáng hôm đó tôi hầu như chẳng biết gì về gia đình hay thời thơ ấu của cô. Tôi biết tính cô trầm lặng, rằng cô thích vẽ, rằng cô có mái tóc dài thật đẹp, rằng cô có hai cái bớt trên bả vai phải. Và rằng tôi là người đàn ông đầu tiên trong đời cô.
Cô vừa kể vừa khóc thút thít. Tôi hiểu tại sao cô cần phải khóc. Tôi ôm cô trong vòng tay, vuốt tóc cô.
“Nếu chị ấy còn sống, em tin chắc anh sẽ yêu chị ấy,” Kumiko nói. “Hồi xưa ai cũng yêu chị ấy. Vừa thấy lần đầu là đã yêu ngay.”
“Có thể,” tôi nói. “Nhưng anh lại phải lòng em. Chuyện ấy đơn giản lắm mà. Chỉ có anh và em thôi. Chị của em chẳng liên quan gì ở đây hết.”
```“Kafka Bên Bờ Biển” của Haruki Murakami không đơn thuần là một cuốn tiểu thuyết, mà là một trải nghiệm. Ngay từ những trang đầu tiên, người đọc đã bị cuốn vào một thế giới kỳ lạ, nơi thực tại và giấc mơ giao thoa, nơi những điều tưởng chừng vô lý lại trở nên quen thuộc đến lạ. Câu chuyện xoay quanh Toru Okada, một luật sư vừa bỏ việc, cuộc sống của anh đảo lộn khi con mèo biến mất, rồi đến người vợ Kumiko cũng rời đi một cách bí ẩn.
Hành trình tìm kiếm vợ và con mèo đưa Toru đến với những nhân vật kỳ quặc, mỗi người mang một câu chuyện riêng, góp phần tạo nên bức tranh phức tạp và đầy ám ảnh của cuốn sách. Từ cô gái điếm tâm thần với những cuộc gọi quấy rối, đến hai chị em thầy đồng bí ẩn, hay cô bé 16 tuổi ám ảnh bởi cái chết, tất cả đều là những mảnh ghép của một câu đố lớn. Đặc biệt, câu chuyện về cựu chiến binh kể lại những ký ức kinh hoàng trong Thế chiến thứ hai tại Cao nguyên Mông Cổ và Trung Hoa là một điểm nhấn đầy xúc động và suy ngẫm.
Murakami không chỉ xây dựng một cốt truyện hấp dẫn mà còn đi sâu vào khai thác những khía cạnh tâm lý phức tạp của nhân vật. Qua những cuộc trò chuyện, những suy tư nội tâm, ta thấy được những vết thương lòng, những nỗi cô đơn, những khao khát được yêu thương và thấu hiểu. Đoạn trích về mối quan hệ giữa Kumiko và anh trai Noboru là một ví dụ điển hình. Sự xa cách, những hiểu lầm, những tổn thương từ quá khứ đã tạo nên một khoảng cách không thể vượt qua giữa hai anh em.
Tác giả khéo léo phơi bày những góc khuất trong gia đình Kumiko, những bí mật được chôn giấu qua nhiều năm. Việc Kumiko bị gửi về sống với ông bà nội từ khi còn nhỏ, những bất hòa giữa cha mẹ và bà nội, cái chết của chị gái… tất cả đều để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn cô bé, khiến cô trở nên khép kín và khó hòa nhập. Kumiko chia sẻ: “Em tin chắc đó chẳng qua là cái cớ thôi”, khi nói về lý do cha mẹ gửi cô về Niigata. Câu nói ngắn gọn này gói gọn sự ngờ vực và nỗi đau âm ỉ trong lòng cô.
“Kafka Bên Bờ Biển” thể hiện rõ phong cách viết đặc trưng của Murakami: văn phong giản dị, gần gũi nhưng lại chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa. Ông sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, những chi tiết kỳ lạ để gợi lên những cảm xúc mơ hồ, những suy tư sâu sắc. Cách kể chuyện chậm rãi, uyển chuyển, kết hợp giữa yếu tố hiện thực và siêu thực, tạo nên một không gian đọc đầy lôi cuốn và ám ảnh.
“Kafka Bên Bờ Biển” là một cuốn sách không dễ đọc, nhưng cũng không dễ quên. Nó đòi hỏi người đọc phải có sự kiên nhẫn, khả năng cảm thụ và sẵn sàng đối diện với những câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống, về bản chất con người. Nếu bạn là người yêu thích những tác phẩm văn học sâu sắc, giàu tính triết lý và đầy chất thơ, thì đây chắc chắn là một cuốn sách bạn không nên bỏ qua.
Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi, tài liệu học tập